Năng Lượng Hạch Nhân

 

Quan niệm đúng đắn về phát triển bền vững cũng như nhu cầu năng lượng cần thiết cho phát triển là hai vấn đề cấp thiết mà nhân loại cần phải lưu tâm trong những năm sắp đến. Tiến tŕnh toàn cầu hóa trong phát triển chung khiến cho hầu hết lănh đạo các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những quốâc gia hậu kỹ nghệ cần phải ngồi lại để t́m ra những biện pháp chung hầu giải quyết vấn đề cốt lỏi của con người. Đó là năng lượng cần thiết để phát triển.

Trước những vấn nạn môi trường và hệ sinh thái bị hủy diệt, nhu cầu điện năng đến từ than đá hay thủy điện dần dần bị thay thế bằng những nguyên liệu sạch cho năng lượng. Năng lượng từ dầu hỏa có nguy cơ bị cạn kiệt trong những thập niên sắp đến. Về năng lượng gió cũng như năng lượng mặt trời...chỉ là những bước đầu, chưa đạt quy mô lớn và giá thành tương đối c̣n cao.

 

Chỉ c̣n lại năng lượng hạch nhân hiện đang được các quốc gia ráo riết tập trung nghiên cứu để tiến đến một công nghệ năng lượng sạch, an toàn, giá thành rẽ, và mang lại nhiều ứng dụng khác hơn là việc tạo ra điện năng phù hợp với tinh thần phát triển bền vững do LHQ đề ra.

Bài viết có mục đích tŕnh bày một số thông tin căn bản về sự lịch sử và sự h́nh thành một ḷ phản ứng hạch nhân, cùng những viễn kiến tiến tới một công nghệ sạch cùng một số an toàn lao động trong vận hành để từ đó suy nghiệm về việc xây dựng một ḷ nguyên tử ở VN.

 

Sự phân bổ các ḷ năng lượng hạch nhân

 

Hiện tại (2006), trên thế giới hiện có 441 ḷ phản ứng hạch nhân đang hoạt động răi rác ở 31 quốc gia, sản xuất ra 363 triệu Kilowatt (KW) điện năng. Trung b́nh một ḷ phản ứng có khả năng sản xuất từ 800 trăm ngàn đến một triệu KW. Hiện tại, có 30 ḷ đang được xây cất ở 24 quốc gia, và thế giới cũng đang có dự kiến xây dựng thêm 104 ḷ phản ứng nữa trong ṿng 10 năm tới.

 

Các quốc gia Á Châu như Trung Hoa, Nhật Bản, Đài Loan, Đại Hàn là những quốc gia đang đặt trọng tâm vào việc xây dựng ḷ phản ứng cho nhu cầu năng lượng cần cho phát triển. Trong tương lai, năng lượng hạch tâm không chỉ được được xử dụng để sản xuất ra điện năng mà c̣n được ứng dụng như một dạng năng lượng để sản xuất ra khí Hydrogen (H2), hoặc dùng để khử muối trong nước biển cho nhu cầu nước sinh hoạt ở những vùng không đủ nước. Có thể nói H2 là hoá chất căn bản để thực hiện hầu hết các quy tŕnh sản xuất hóa chất trong kỹ nghệ, đây là một nguyên liệu có thể thay thế các sản phẩm hóa chất khác từ dầu hỏa.

 

Tại Hoa kỳ, hiện có 103 ḷ phản ứng đang hoạt động, sản xuất ra 97 triệu KW, chiếm khoảng 20% nhu cầu điện năng toàn quốc. Chi phí xây dựng cho 1 KW giờ điện của loại năng lượng nậy là 1,68 cents, chỉ đứng sau giá điện năng do thủy điện cung cấp mà thôi. Tại California, chúng ta phải trả trung b́nh khoảng 7 cents cho 1 KW giờ. Thời gian hoạt động của một ḷ phản ứng năng lượng hạch nhân là khoảng 40 năm.

 

Đối với các quốc gia Tây Âu, tỷ lệ xử dụng điện từ ḷ hạch nhân trung b́nh khoảng 35%> Pháp đă xử dụng 78% cho nhu cầu điện toàn quốc; Bỉ, 55%.

 

Lịch sử h́nh thành ḷ phản ứng hạch nhân

 

Một trong những nhu cầu cần thiết để phát triển quốc gia là năng lượng. Và năng lượng đến từ các ḷ phản ứng hạch nhân được các khoa học gia chú ư đến từ những năm đầu thập niên 50. Từ đó ḷ phản ứng thuộc thế hệ I (generation I) ra đời. Các ḷ nầy hiện tại vẫn c̣n được xử dụng. Tuy nhiên các ḷ thuộc thế hệ nầy đang đi dần đến sự đào thải v́ thời gian vận hành sắp chấm dứt (tuổi thọ của một ḷ phản ứng vào khoảng 50 năm). Thế hệ thứ II ra đời vào đầu thập niên 70. Thế hệ thứ III, vào thập niên 90. Và sau cùng thế hệ thứ IV đang được chuẩn bị với rất nhiều hy vọng trở thành một công nghệ toàn hảo v́ sẽ làm giảm thiểu tối đa hiệu ứng nhà kính qua việc phóng thích thán khí đối với các ḷ phản ứng thuộc các thế hệ trước đó, thực hiện được an toàn lao động trong vận hành, và nhất là các ḷ trên sẽ là ḷ phản ứng tự giải quyết trong trường hợp có tai nạn xảy ra, nghĩa là không cần thiết đến sự hiện diện của con người trong trường hợp nầy.

 

1- Ḷ phản ứng thế hệ I - Ḷ phản ứng có tên Magnox là một ḷ phản ứng đầu tiên được sản xuất và tung ra thị trường vào những năm đầy thập niên 50 do 3 nhà vật lư học người Anh sáng chế có tên: TS Ion, TS Khalit, và TS Magwood. Ḷ Magnox xử dụng nguyên liẹâu Uranium trong thiên nhiên trong đó chỉ có 0,7% chất đồng vị (isotope) U-235 và 99,2% U-238. Nguyên tắc vận hành có thể được tóm tắt như sau: Các ống kim loại Uranium nầy được bao bọc bằng một lớp hợp kim gồm nhôm (Al) và Magnesium (Mg). Một lớp than graphite đặt nằm giữa ống Uranium và hợp kim trên có mục đích làm chậm bớt vận tốc phóng thích của trung ḥa khí (neutron) do sự tách rời (fission) U-235. Từ đó các trung ḥa khí trên sẽ va chạm mạnh với hạch nhân của U-235 (nuclei)...để các phản ứng dây chuyền liên tục xảy ra làm tăng thêm sự va chạm... Đây là một phản ứng phát nhiệt rất lớn và thán khí (CO2) được dùng để chuyển tải nhiệt năng nầy đến một máy turbine hơi nước để từ đó biến cải thành điện năng.

Việc điều ḥa vận tốc phản ứng dây chuyền hoặc chận đứng phản ứng là một công đoạn quan trọng bậc nhất của một ḷ phản ứng. Trong công đoạn nầy ḷ Magnox xử dụng một loại thép làm từ hóa chất boron (B), loại thép nầy có tính chất hấp thụ các trung ḥa tử, do đó có thể điều khiển phản ứng theo ư muốn. Có tất cả 26 ḷ Magnox đă hoạt động ở Anh Quốc, hiện tại chỉ c̣n 8 ḷ c̣n đang họat động và sẽ bị đào thải vào năm 2010.

 

2-   phản ứng thế hệ II: Các ḷ nầy đă ra đời vào thập niên 70 và 80, hiện chiếm đa số các ḷ đang họat động trên thế giới. Từ lúc ban đầu, 60% của loại ḷ nầy  áp dụng nguyên lư ḷ nước dưới áp suất (pressurized water reactor-PWR), trong đó nước dưới áp suất cao được xử dụng vừa làm dung dịch làm nguội, vừa làm dung dịch điều ḥa phản ứng. Nguyên liệu xử dụng cho ḷ thuộc thế hệ II nầy thay v́ dùng Uranium thiên nhiên, hợp chất Uranium dioxide được thay thế và hợp kim nầy được bọc trong các ống cấu tạo bằng kim loại Zirconium. Do đó Uranium-235 sẽ được tinh luyện từ 0,7% đến 3,0 - 3,5%. Nhưng các loại ḷ nầy lần lần được thay thế bằng cách áp dụng nguyên lư của ḷ hơi nước dưới áp suất (boiling water reactor-BWR). Một khác biệt căn bản là nước được đun sôi rồi mới chuyển qua hệ thống làm tăng áp suất. Làm như thế, phương pháp nầy rút ngắn tiến tŕnh tạo nhiệt của hơi nước trong khi chuyển số nhiệt lượng qua các turbine để biến thành điện năng.

 

3- Ḷ phản ứng thế hệ III: Kễ từ cuối thập niên 80, thế hệ III bắt đầu được nghiên cứu với nhiều cải tiến từ các ḷ phản ứng loại BWR của thế hệ II. Và ḷ nầy được đi vào hoạt động đầu tiên vào năm 1996 tại Nhật Bản. Bằng sáng chế đă được US Nuclear Regulatory Commission (NRC) xác nhận. Hiện tại các ḷ nầy đang được thiết lập ở nhiều quốc gia trên thế giới v́ đáp ứng được nhu cầu xây cất tương đối ngắn, 3 năm, và chi phí cũng giảm so với các ḷ thuộc thế hệ trước cùng phương cách vận hành cũng như bảo tŕ tương đối giản dị và an toàn hơn.

 

4- Ḷ phản ứng thế hệ IV: Tuy nhiên trước yêu cầu ngày càng cấp thiết hơn về an toàn lao động và bảo vệ ô nhiễm môi trường nhất là hiệu ứng nhà kính, các khoa học gia đang tiến dần đến việc xây dựng các ḷ hạch nhân thế hệ IV, trong đó hệ thống an toàn không c̣n dùng đến con người nữa mà hoàn toàn tự động. Thêm nữa sẽ không c̣n có việc thải hồi khí CO2 vào không khí. Một đặc điểm mới của ḷ hạch nhân thế hệ IV nầy là có thể sản xuất ngoài điện năng, c̣n cho ra Hydrogen, một nhân tố căn bản cho hầu hết các phương pháp tổng hợp hóa chất cần thiết cho công kỹ nghệ. Thế hệ IV c̣n được gọi là ḷ phản ứng cách mạng ( revolutionary reactor). Thế hệ nầy đang được 9 quốc gia phối hợp thử nghiệm từ năm 2000. Các quốc gia nầy gồm: Á Căn Đ́nh, Ba Tây, Canada, Pháp, Nhật BaÛn, Nam Phi, Đại Hàn, Anh Quốc, và Thụy Sĩ. Cộng đồng nguyên tử năng Âu Châu (European Atomic Energy Community) cũng đă xin gia nhập nghiên cứu chung vào năm 2003.

 

Thế hệ nầy sẽ đi vào ứng dụng vào năm 2030 và có thể thỏa măn những điều kiện sau ngoài các lợi thế kễ trên: 1- giá thành cho điện năng sẽ rẻ hơn hiện tại; 2- hoàn toàn an toàn 100%; 3- phế thải giảm thiểu tối đa.

 

Vấn đề an toàn vận hành của một ḷ hạch nhân

 

Để đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững trong tương lai, việc làm khẩn thiết và cấp bách của các khoa học gia là làm thế nào để bảo đăm an toàn lao động trong vận hành và an toàn cho dân chúng sống chung quanh ḷ hạch nhân trong tường hợp có tai nạn hay khủng bố. Đây là mục tiêu mà mọi quốc gia đang nhắm đến.

 

Tuy nhiên vấn đề an toàn lao động trong việc xử dụng năng lượng hạch nhân đă làm tăng thêm nhiều dị biệt trong quan niệm về lănh vực nầy của các nhà làm khoa học. GS Jerrence Collins, thuộc đại học Carnegie Mellon, Pittsburgh đă phát biểu: Tôi nghĩ năng lượng hạch nhân là một hướng đi sai lầm v́ việc xử dụng loại năng lượng nầy sẽ không bao giờ có được an toàn.

 

Ngược lại, TS Peterson có cái nh́n tích cực hơn trong khi suy nghĩ về tính an toàn trong vận hành một ḷ phản ứng là:

-           1- Cần phải có một hệ thống kiểm soát hữu hiệu để chấm dứt sự tách đôi của các trung ḥa tử (nghĩa là chấm dứt hệ thống phát nhiệt) khi xảy ra tai nạn. Tai nạn ở Chernobyl năm 1986 đă xảy ra quá trầm trọng về mặt thiệt hại nhân sự v́ ḷ hạch nhân ở nơi đây không có hệ thống tự động để ngưng phản ứng kể trên.

 

-           2- Mục tiêu thứ hai cho an toàn lao động là làm thế nào để di dời các phế thải phóng xạ (radioactive decay) được sinh ra liên tục trong giai đoạn va chạm và tách rời giữa các trung ḥa tử và hạch tâm Uranium. Nếu không được di dời đúng lúc, phế thải phóng xạ sẽ tích tụ ngày càng nhiều làm cho các ống phản ứng nóng thêm ra và làm hư hại các ống nầy, do đó ḷ phản ứng sẽ bị giảm hiệu năng và có thể xảy ra tai nạn. Đó là tai nạn ở một ḷ hạch nhân Pennsylvania vào năm 1979.

 

-           3- Mục tiêu thứ ba là làm thế nào để ngăn chặn việc chất phóng xạ thoát ra ngoài không khí. Do đó, ḷ phản ứng phải hoàn toàn bị cô lập trong trường hợp có tai nạn.

 

Các ḷ phản ứng thuộc thế hệ I và II có hệ thống an toàn dựa theo các nguyên lư về cơ học, vật lư, và điện học như: hệ thống kiểm soát nhiệt, các chốt đóng/mở tự động, bơm tự động, hệ thống trao đổi nhiệt (làm nguội) tự động. Trong lúc đó các ḷ thuộc thế hệ III được trang bị hệ thống di dời phế thải phóng xạ và có hệ thống bơm nước để gỉai nhiệt ṭan thể ḷ phản ứng; khi tai nạn xảy ra sẽ có một hệ thống an toàn tự động bắt đầu hoạt động ngay không cần có sự điều khiển của con người.

 

Hiện tại, trước khi thế hệ IV đi vào hoạt động, thế hệ III đang được cải tiến thêm để thỏa măn 3 mục tiêu kể trên. Đó là ḷ hạch nhân Westinghouse AP 1000 do Westinghouse Electris (US) sáng chế. Ḷ nầy, so với 3 thế hệ trước đă giảm được 50% chốt đóng mở, 35% bơm áp suất, 80% đường ống, và 80% dây cáp trong thiết kế mới nầy. Với sáng chế trên, ḷ AO 1000 cho đến năm 2010 sẽ giảm chi phí xây cất xuống c̣n $1000 đến $1200 Mỹ kim cho 1 KW điện.

 

Quan điểm dị biệt giữa các quốc gia

 

Tuy cùng chia xẻ một nhu cầu chung cho tương lai, cùng những tiện ích và tương đối an toàn trong việc bảo vệ môi trường đối với các ḷ hạch tâm ở thế hệ mới, các quốc gia trên thế giới vẫn cho thấy một quan niệm không đồng nhất về sự hiện hữu của các ḷ hạch nhân.

Đối với Hoa Kỳ, các ḷ phản ứng thuộc thế hệ IV thể hiện một chu tŕnh sản xuất năng lượng sạch, từ đó họ cổ súy việc xử dụng loại năng lượng nầy. Nhu cầu phát triển của Hoa Kỳ trong ṿng 20 năm tới cần thêm 335 triệu KW tương đương với việc xây thêm khoảng 50 ḷ hạch tâm.

 

Trong lúc đó tại các quốc gia Tây phương như Phần Lan chỉ dự định xây thêm một ḷ nữa mà thôi trong tương lai. Pháp cũng đồng ư xây thêm nữa cho nhu cầu của nước nầy. Đối với các quốc gia khác như Đức, Ḥa Lan, và Thụy Điển đang có dự án chấm dứt các ḷ phản ứng hiện đang c̣n hoạt động. Và trầm trọng hơn nữa, là chính phủ Áo, Đan Mạch, và Ái Nhỉ Lan đă bày tỏ chống đối việc xử dụng loại năng lượng hạch nhân nầy. Chính phủ Ư đă quyết định hủy bỏ 4 ḷ phản ứng sau cuộc trưng cầu dân ư năm 1987. Về phần Tay Ban Nha th́ đang quản lư 9 ḷ phản ứng và có dự định xây thêm. C̣n Anh Quốc th́ hiện tại chưa tỏ thái độ đồng ư hay chống đối. Trong lúc đó, Nga Sô sau tai nạn Chernobyl đang xây thêm 6 ḷ và dự trù xây thêm 8 ḷ nữa trong một tương lai gần đây.

 

Về phía Á Châu, Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản, Đại Hàn, và Đài Loan đều có chương tŕnh tích cực cho việc xây dựng ḷ phản ứng hạch nhân. Gần đây nhất, các quốc gia nầy đă hoàn tất tất cả 17 ḷ, và đang dự định xây cất thêm 70 ḷ nữa. Trong lúc đó Phi Luật Tân vừa sắp sữa hoàn thành 90% ḷ hạch nhân, nhưng v́ sự phản đối của người dân trong vùng về mức bảo đảm an toàn lao động trong vận hành đă bắt buộc chính quyền quốc gia nầy phải hủy bỏ dự án nửa chừng, tốn hao công quỹ hàng tỷ Mỹ kim.

 

Việt Nam: Xây dựng hay không xây dựng?

 

Việt Nam hiện có một Viện Năng Lượng Nguyên Tử ở Đà Lạt (Việt Nam Nguyên tử lực Cuôc cũ thời Việt Nam Cộng Ḥa) do TS Phạm Duy Hiển làm Giám đốc hơn 20 năm nay. Theo báo chí trong nước th́ Việt Nam dự định bắt đầu xây cất 2 ḷ phản ứng hạch nhân vào năm 2012 để có thể đi vào hoạt động năm 2017. Địa điểm dự trù là Phước Dinh, Phước Hải (Ninh Thuận), và Ḥa Tân (Tuy Ḥa, Phú Yên). Kinh phí dự trù cho hai dự án kể trên là 3 tỹ Mỹ kim và sẽ do các công ty Nga thực hiện.

 

Vào ngày 24/1/2006, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam đă tổ chức một hội thảo đóng góp ư kiến cho dự thảo Luật về Năng lượng nguyên tử hay Dự thảo 1.17 tại Hà Nôäi. Ban soạn thảo đă tổ chức ba cuộc hội thảo tại Hà Nội , Đà LaÏt và Sàig̣n, sau đó đă đúc kết Dư thảo Luật gồm 16 Chương và 118 Điều. Nội dung Dư thảo nêu lên những khái lược về dịch vụ bảo đảm an toàn bức xạ, độc quyền của nhà nước về điện hạch nhân, và các thủ tục bồi thường khi có tai nạn xảy ra...Tuy nhiên, Luật về năng lượng nghuyên tử trên ch́ nêu lên những điểm tổng quát liên quan nhiếu đến thủ tục hnh chánh và do đó, không thể được xem như là điều lệ căn bản trong xây dựng và vận hành một nhà máy điện nguyên tử v́ c̣n thiếu nhiều thông tin và quy định kỹ thuật trong vận hành cũng như trong bảo quản an toàn  cho môi trường và nhân viên của nhà máy.

 

Ngay sau khi quyết định nầy được phổ biến vào đầu năm 2004 và quyết định mới nhất aṿ đầu năm 2006, nhiều nhà khoa học trong nước và ngoại quốc đă bày tỏ mối quan ngại và lên tiếng phản đối hai dự án trên.

 

Có nhiều lư do đưa ra cho việc phản đối nầy:

·           Địa điểm chọn lựa của hai vùng hoang mạc khô cằn, thưa dân cư, không thuận tiện cho việc di chuyển của nhân công và ban quản lư nhà máy trong tương lai;

·           Ở cả hai vùng, không có hạ tầng cơ sở tối thiểu cho nhu cầu yểm trợ việc xây cất, vận chuyển, cùng nhu cầu về xă hội, y tế, và sinh hoạt hàng ngày của công nhân như điện nước v. v...;

·           Và nhất là, hiện tại Việt Nam chưa có khả năng cũng như không có dự kiến đào tạo nhân sự chuyên môn trong lănh vực nầy trong một tương lai gần.

·           Vấn đề nguyên liệu nguyên tử là một vần đề cốt lỏi mà chắc chắn Việt Nam không thể nào chủ động  kiểm soát được v́ tùy thuộc vào quốc gia cung cấp. Chất Uranium và khả năng tinh luyện chất nầy để dùng cho ḷ phản ứng hạch nhân cần những nhân sự thật chuyên môn và nhiều kinh nghiệm mà việc đào tạo đ̣i hỏi ít nhất vài chục năm.

 

Vấn đề xây dựng nhà máy điện nguyên tử dưới quan điểm của dân tộc thiểu số Chăm qua Musa Porome trên báo Harak Champaka (Pháp) lại có một ư nghĩa khác nữa. Lư luận của Musa đă dựa theo một số dữ kiện qua chiều dài lịch sử Chăm-Việt và phát biểu  rằng Đặt nhà máy nguyên tử ở Phan Rang có chăng chỉ là âm mưu diệt chủng của người Chăm cuối cùng trên trái đất nầy. Thời qian không đứng đợi, chúng ta đừng nên để đên lúc bầu không khí ngập tràn chất phóng xạ chụp lầy đời sống tương lai con em chúng ta, khi đó mọi việc sẽ quá muộn màng đi mất.

 

Thêm nữa, dưới cái nh́n và phântích rất khoa học của TS Hermann Schêr, Chủ tịch Ủy ban quốc tế về năng lượng tái tạo của quốc hội Đức đă phê phán về việc thiết lập ḷ nguyên tử ở Việt Nam như sau: Điện nguyên tử là một phương án tốn kém và rủi ro, trong khi Việt Nam có thể bù đấp bằng các nguồn tự nhiên dồi dào khác như gió, sinh khối (biomass), mặt trời v.v&. Ông đánh giá tiếp: Người ta nói đến việc xây dựng nhà máy điện nguyên tử bởi họ không muốn chấp nhận là có năng lượng tái sinh, và phủ nhận vai tṛ của năng lượng tái sinh. Dưới sự hậu thuẩn của Ủy ban năng long nguy6en tử quốc tế, trường phái ủng hộ việc xây dựng cổ súy việc nầy v́ để hạn chế sự ham nóng ṭan cầu. Theo họ, năng lượng tái sinh không đử thay thế năng lượng c̣n thiếu, hặc tốn kém quá, hoặc công tác xây dựng dài quá.

 

Thật ra cả 3 giả thuyết trên đều sai v́ giá thành điện nguyên tử đắt hơn qua xây dựng, bảo tŕ, và hâu quả khi xảy ra tai nạn không thể lường được và trên thế bgiới hiện nay chưa có một công ty bảo hiểm nào chấp nhận bảo hiểm cho 441 ḷ nguyên tử hiện nay.

Đó là chưa kể đến nguồn nguyên liệu Uranium đă có giới hạn và đang đi dần đến sự cạn kiệt. Ước tính, nguồn nguyên liệu nầy chỉ c̣n khả năng dự trữ trong ṿng 50 năm chưa kể đến hàng chục ḷ nguyên tử đang được xây dựng rải rác trên thế giới.

 

Và gần đây nhất, vào ngày 5/6/2006 một vụ that thoát 54,8 mg đồng vị phóng xạ Europium-125 đă được sản xuất tại ḷ phản ứng Đà Lạt tháng 10/1995. Chất phóng xạ đă được đóng kín trong một ampoule có ch́ bao bọc ngoài và đặt trong một hộp bằng sắt h́nh trụ. Hộp phóng xạ đă bị đánh cắp và được t́m thấy ở một tiệm buốn bán đồ phế thải ở Hà Nội.

 

Câu chuyện trên đă chứng minh một cách rơ ràng là Việt Nam chưa có khả năng quản lư và kiểm soát an ṭan bức xạ hạch nh6an và tệ hại hơn nữa là công việc tẩy rữa bức xạ tại điẹa điểm trên cũng tiến hành như mô65t thủ tục xử lư b́nh thường, nghĩa là việc tẩy xạ ḥa ṭan không có trang bị an ṭan bức xạ. Chíng điều nầy càng làm cho người dân hoang mang thêm.

 

Kết  Luận.

 

Để kết luận, xây cất một ḷ phản ứng hạch nhân chỉ là giai đoạn sau cùng trước khi hoàn tất các giai đoạn kể trên. Về nhân sự, sự yếu kém về tri thức công nghiệp, kiến thức quản lư, cũng như khả năng chuyên môn trong lănh vực nguyên tử và hạch nhân sẽ là những cản ngại lớn khiến cho việc thiết lập ḷ phản ứng khó có cơ may thực hiện hay chỉ thực hiện nửa chừng...

 

Thêm nữa, theo ước tính của một số nhà khoa học trong và ngoài nước th́ tiềm năng của Việt Nam về than đá, dầu mỏ, khí đốt, cùng với việc khai thác và phát triển những loại năng lượng trong tầm tay như năng lượng gió, năng lượng mặt trời...

Theo ước tính, VN hiện tại chỉ đem vào xử dụng 11% lượng năng lượng tự nhiên trên tổng số năng lượng dùng cho toàn quốc gồm 12% năng lượng đĩn, 30% năng lượng mặt trời, và 15% năng lượng sinh học. VàViệt Nam vẫn c̣n có thể dư thừa năng lượng dùng cho việc phát triển kinh tế, xă hội đến năm 2030. Để rồi, vào thời điểm nầy, Việt Nam có đủ thời gian để chuẩn bị ngay từ bây giờ hầu có thể tránh được những cản ngại vưà kể trên trong tương lai. Trong giai đoạn nầy, những ḷ thuộc thế hệ IV đan cử ở phần trên đă được áp dụng trong một thời gian dài, đủ để cho các quốc gia Tây phương có khả năng và kinh nghiệm điều chỉnh những bất ngờ trong vận hành.

Đễ rồi, sau đó Việt Nam có thể áp dụng công nghệ nầy an toàn hơn cho công cuộc phát triển quốc gia.

 

Mai Thanh Truyết

West Covina 6/2006