T́nh Trạng Môi Trường Việt Nam Sau 30 Năm

 

Năm 1975, từ khi nước nhà hoàn toàn thống nhất, Việt Nam đă bắt đầu đặt kế hoạch phát triển trên toàn thể quốc gia. Từ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đến 5 năm lần thứ hai. Nhưng trong hai kế hoạch ngũ niên đầu tiên nầy, mọi cố gắng của Việt Nam đă đưa đất nước lâm vào t́nh trạng thực sự kiệt quệ và bế tắc. Sinh hoạt kinh tế hầu như thất bại hoàn toàn. Việt Nam gần như đứng bên lề vực thẳm.

 

Năm 1986, đứng trước hiễm họa diệt vong, chính sách phát triển của Việt Nam đă rẽ sang một bước ngoặc, Việt Nam bắt buộc phải mở cửa để chào gọi đầu tư ngoại quốc hầu cứu nguy nền kinh tế đang kiệt quệ. Từ đó, kinh tế Việt Nam lần lần đi lên từng bước một. Nông ngư nghiệp phát triển và nông dân bắt đầu tương đối có đủ lương thực và không c̣n ăn độn như những năm trước đó nữa.

 

Lợi tức đầu người từ 180 Mỹ kim (1980) tăng dần từ 7 đến 9% mỗi năm tiếp theo. Nhưng cho đến năm 1997, mức tăng trưởng khựng lại vào khoảng 4- 5%  cho đến những năm sau 2000. Từ đó Việt Nam bắt đầu lại vươn lên và đạt được mức tăng trưởng trung b́nh hàng năm vào khoảng 7- 9% trong nhiều năm liền. Đến năm 2004, lợi tức đầu người lên đến 450 Mỹ kim; tuy nhiên vẫn c̣n cách xa so với mức tăng trưởng của Trung Quốc là 900 Mỹ kim ($200/người/năm trong năm 1980).

 

Bên cạnh việc phát triển và tăng trưởng kinh tế kể trên, Việt Nam lại phải đối mặt với một vấn nạn môi trường do phát triển ngày càng trầm trọng thêm ra. VaØ vấn nạn nầy là một thách thức lớn nhất của Việt Nam trong những ngày sắp đến.

 

Mục đích của bài viết là tŕnh bày lần lượt 2 yếu tố nổi bật ảnh hưởng đến môi trường qua 30 năm phát triển của Việt Nam. Đó là sự phá rừng và sự gia tăng dân số cùng những hệ lụy nảy sinh do hai yếu tố trên.

 

Ảnh hưởng môi trường qua việc phá rừng 

 

Trước chiến tranh thứ hai, diện tích rừng nguyên sinh của Việt Nam là 19 triệu mẫu chiếm 58% diện tích cả nước. Cho đến năm 1943 rừng chỉ c̣n lại 14,1 triệu mẫu (43%); và đến năm 1990 t́nh trạng càng tệ hại hơn nữa, diện tích rừng chỉ c̣n 9,1 triệu mẫu (27,7%). Theo báo cáo năm 2002 của Ngân hàng Thế giới (WB), kễ từ năm 1999 trở đi, hàng năm mức độ đốn rừng để xẻ gỗ được ước tính là 2 triệu m3. Ngoài ra c̣n phải kể đến việc cháy rừng vào mùa khô và việc chuyển đổi rừng trong việc nuôi tôm như vùng rừng tràm, đước ở Cà Mau.

 

Việt Nam cũng có chương tŕnh trồng rừng sau khi nhận thức được nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường trong việc phá rừng bừa băi. Do đó, chương tŕnh trồng rừng 327 đă được phát động từ năm 1994 đến nay. Chỉ tiêu cho đến năm 2010 là cố gắng trở lại mức b́nh thường vào thời điểm 1943, nghĩa là từ bây giờ cho đến cuối kế hoạch phải trồng thên 5 triệu mẫu rừng, chưa kể đến số diện tích rừng bị hủy diệt hàng ngày. Chi phí trồng rừng được ước tính là 1,1 triệu Mỹ kim/mẫu. Và Việt Nam nếu muốn đạt chỉ tiêu nầy th́ hàng năm phải trồng thêm 1.000.000 mẫu rừng. Do đó tính khả thi của chương tŕnh trồng rừng 327 khó có khả năng thực hiện được.

 

Về ĐBSCL, trong hiện tại chỉ c̣n 5% rừng che phủ và đă mất đi khoảng 175.000 mẫu rừng ngập mặn tính đến 2003. Rừng ngập mặn ở nơi nầy thể hiện nhiều lợi điểm sau đây: 1- chống lại sự xói ṃn của biển, 2- hạn chế được sự nhiễm mặn vào sâu trong vùng đất liền, 3- và nhất là bảo vệ được đa dạng sinh học cho toàn vùng. Kỹ nghệ nuôi tôm đă đánh mất đi các lợi điểm nầy và hiện đang để lại một di hại không nhỏ cho toàn vùng hiện tại.

 

Về đất, hậu quả trước mắt ảnh hưởng từ việc phá rừng là sự thoái hóa của đất. Đất mất đi độ ph́ nhiêu và sự cân bằng dinh dưởng. Lớp đất thịt trên mặt sẽ bị cuốn trôi sau những cơn mưa v́ không c̣n cây và rễ để giữ đất lại. Điều nầy được tỏ rơ trong năm 2001, lần đầu tiên trong lịch sử nước sông Hương (Huế) đă biến thành đục và độ pH trở thành kiềm trong mùa khô.

 

Ngoài sự thoái hóa của đất do nguyên nhân trên, sau gần 20 măm mở cửa và phát triển ồ ạt trong nông nghiệp, Việt Nam mất đi 2 tỷ tấn đất/năm (nguyên nhân chính yếu là do việc phá rừng) hay tính trung b́nh đất bị xói ṃn tùy theo vùng và đă thất thoát từ 50 - 3200 tấn/mẫu/năm ảnh hưởng đến 23 triệu mẫu trên toàn quốc, chiếm 70% diện tích quốc gia.

 

Về nước, theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Quốc gia về Cung cấp Nước sạch và Vệ sinh môi trường năm 2003, nguồn nước ở Việt Nam ngày càng bị khan hiếm và ô nhiễm. Sự thoái hóa nầy tăng theo tỷ lệ thuận với mức tăng trưởng kinh tế, nhất là ở những năm gần đây. Nhu cầu nước cho nông nghiệp chiếm 88%, và cho kỹ nghệ chiếm 7%.

 

Các nguồn nước thải từ khu gia cư, từ các trung tâm kỹ nghệ, khu chế xuất, đất nông nghiệp v.v...đă xâm nhập vào nguồn nước mặt, nước ngầm, thậm chí ảnh hưởng đến phẩm chất nước ở vùng duyên hải nữa. Nước sinh hoạt gia cư, nước thải kỹ nghệ, và nước rỉ từ các băi rác là nguyên nhân chính yếu cho việc ô nhiễm hữu cơ trong nguồn nước mặt đặc biệt ở các thành phố lớn như TpHCM, Hà Nội, Hải Pḥng, Đà Nẳng, Cần Thơ v.v... căn cứ theo báo cáo trên.

 

Về vùng duyên hải, trong ṿng 3 thập niên trở lại đây, hơn 96% san hô của Việt Nam đều bị ảnh hưởng do tác động của con người như đánh bắt cá bằng thuốc nổ, bằng hóa chất độc hại như cyanur, hoặc bị nhiễm độc do phế thải, đặc biệt ở vịnh Hạ Long, Cát Bà (Hải Pḥng), Ninh Thuận, B́nh Thuận, và Khánh Ḥa. Theo một nghiên cứu thăm ḍ từ năm 1994 đến 1997 tại 142 địa điểm san hô dọc theo bờ biển Việt Nam, kết luận của bảng thăm ḍ cho thấy chỉ c̣n độ 1% tổng lượng san hô chưa bị ô nhiễm xâm nhập mà thôi. Riêng tại khu vực duyên hải miền Bắc, theo ước tính  của Hải học Viện Nha Trang th́ trong ṿng 20 năm trở lại đây, công nghệ khai thác than Quảng Ninh và các vùng phụ cận đă hủy diệt trên 50% lượng san hô ở vùng biển nầy.

 

Ảnh hưởng do sự gia tăng dân số

 

Với diện tích 325.000 Km2 trong đất liền và 336.000 Km2 nếu tính luôn các hải đăo, Việt Nam phải đối mặt với sự gia tăng dân số trầm trọng từ 44 triệu vào năm 1975 lên đến trên 82 triệu năm 2004. Mật độ trên 1 Km2 tăng từ 135 người đến 252 người. Toàn thể Việt Nam hiện tại có khoảng 12 triệu mẫu đất canh tác cho trồng trọt và chăn nuôi. Chính sự gia tăng dân số quá nhanh ngay sau khi chiến tranh vừa chấm dứt là một trong những nguyên nhân chính cho việc phá rừng. Cùng với mức gia tăng trên, và do nhu cầu sinh tồn, con người đă làm cho môi trường ngày càng xuống cấp nhanh hơn qua việc đốt rừng làm rẫy, độc canh trên đất dốc, đồi núi mà không có biện pháp chống xói ṃn. Về trồng trọt, v́ không được hướng dẫn cho nên việc luân canh không có kỹ thuật, không hợp lư cũng như không có kế hoạch, nhất là các loại cây công nghệ như: mía, khoai ḿ, khóm, lúa, đậu v.v...

 

Thêm nữa, cũng v́ mức gia tăng dân số cho nên đất đă bị xử dụng liên tục, không có thời gian nghĩ ngơi để lấy lại sự cân bằng thiên nhiên. Cũng như v́ nhu cầu tưới tiêu, cho nên nông dân không ngần ngại xử dụng nguồn nước thiếu phẩm chất như nước phèn, nước lợ....và hậu quả tất nhiên của việc làm nầy là mức độ nhiễm mặn, nhiễm phèn lấn sâu vào lục địa và đất đang có nguy cơ trở thành sa mạc hóa trong tương lai, và không thể phục hoạt được.

 

Việc di dân từ các vùng cao miền Bắc vào cao nguyên Trung phần không có kế hoạch rơ rết cũng như không có nguồn trợ lực về tài chính và kỹ thuật cho di dân lúc ban đầu càng làm cho nông dân gián tiếp tăng thêm mức độ suy thoái của đất trong chăn nuôi và trồng trọt cũng như mức độ ô nhiễm qua việc xử dụng hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật bừa băi làm cho tiến tŕnh hủy hoại môi trường càng nhanh hơn.

 

Thay lời kết

 

Báo cáo Hiện trạng môi trường Việt Nam 2000 soạn thảo do Chương tŕnh Môi trường LHQ và Trung tâm Tài nguyên Khu vực Á châu Thái B́nh Dương (UNEP-RRCAP) có nêu lên ngay trong phần khai mào, có nhận định như sau:Nói chung, cho đến nay (2000) chưa nảy sinh các vấn đề môi trường đối với các khu công nghiệp (KCN) mới.

 

Hiện nay trên cả nước có tất cả 66 KCN hoặc KCX (2005), có KCN nào có hệ thống xử lư nước thải, xử lư phế thải rắn, và xử lư nguồn phát thải vào không khí? Hay là, các phế thải lỏng đi vào cống rănh và chảy thẳng vào kinh rạch rồi đổ ra sông. C̣n phế thải rắn sẽ đi vào các băi rác lộ thiên mà không qua công đoạn xử lư. Và tại những nơi có KCN đang hoạt động không khí bị ô nhiễm hạt bụi và thậm chí có những khí độc thoát ra như khí clor, khí sulfurơ (SO2), và hơi ch́, thủy ngân v.v...Báo cáo trên ghi nhận chưa nảy sinh ra vấn đề môi trường, thử hỏi những vấn nạnmôi trường vừa nêu trên chưa phải là vấn đề môi trường hay sao?

 

Trong Chiến lược Bảo vệ Môi trường Quốc gia 2001 - 2010 do Bộ Khoa học, Công nghệ & Môi trường thực hiện đă được nghiên cứu trong nhiều năm, được sự tham gia đóng góp ư kiến của nhiều nhà quản lư, nghiên cứu của hầu hết Bộ/Ngành ở trung ương và nhiều Ban/Ngành ở các địa phương. Nhiều nhà tài trợ và chuyên gia nước ngoài cũng đă tham gia tư vấn và hoàn thành chiến lược nầy... Và Chiến lược đă rút ra 9 giải pháp để thực hiện việc bảo vệ môi trường Việt Nam trong tương lai nhu sau:

1-         Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường;

2-         Tăng cường vai tṛ của cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân trong bảo vệ môi trường;

3-         Tăng cường và đa dạng hóa đầu tư bảo vệ môi trường;

4-         Tăng cường năng lực quản lư nhà nước về môi trường;

5-         Mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút sự tài trợ của quốc tế;

6-         Kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia với chiến lược phát triển kinh tế xă hội;

7-         Lựa chọn hành động ưu tiên;

8-         Giám sát và đánh giá việc thực hiện chiến lược;

9-         Trách  nhiệm và các cơ quan thực hiện;

 

Tính đến nay, kế hoạch thực hiện chiến lược môi trường đang đi vào giữa giai đoạn (2005), theo sự quan sát của nhiều chuyên gia nội địa và hải ngoại, 9 giải pháp đề ra vẫn chưa được thực hiện đúng mức v́ chỉ là những giải pháp tô vẽ trên giấy tờ và không được khai triển ra từng kế hoạch chi tiết để có thể phối hợp hành động. Ngay cả phạm vi quản lư của nhà nước là ưu tiên hàng đầu mà luật lệ và việc phân công, phân nhiệm c̣n trồng tréo nhau, gây thêm khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất.

 

Luật Môi trường đă được cải sữa lần thứ 17 (2004) mà vẫn c̣n quá nhiều kẽ hở tạo điều kiện thuận lợi thêm cho những móc ngoặc và tham nhũng, cũng như nhà nước phải chịu nhiều thất thu qua các tệ trạng kể trên. Một điều căn bản chính yếu trong luật môi trường là quy định các nhà sản xuất công, kỹ nghệ phái thiết lập báo cáo tác động môi trường (EIA) trước khi dự án được chấp thuận và cấp giấy phép. Nhưng cho đến nay, có gần 700.000 cơ sở công nghiệp lớn nhỏ trên toàn quốc đang hoạt động, vẫn chưa có nơi nào nộp bảng nghiên cứu tác động môi trường theo đúng quy định của luật.

 

Nh́n lại 30 năm quản lư môi trường 1975 - 2005 của một quốc gia Việt Nam thống nhất, đất nước đă được gồm thu vào một mối, công cuộc điều hành quốc gia được tóm gọn vào một chiều hướng duy nhất: Phát triển quốc gia theo định hướng xă hội chủ nghĩa. Dù cố gắng tối đa để có một nhận xét tích cực, nhưng quả thật, Đất Nước Việt Nam đang đi dần đến bế tắc, nhất là 20 năm sau khi có kế hoạch mở cửa từ năm 1986.

 

Phát triển Việt Nam trong nông nghiệp và chăn nuôi để phục vụ cho nhu cầu xuất cảng để có một số ngoại tệ nặng, nhưng cán cân chi thu vẫn làm cho Việt Nam càng thiếu hụt thêm ra theo thời gian mặc dù có rất nhiều nguồn vốn đầu tư do ngoại quốc đổ vào. Việc xuất cảng hàng năm trung b́nh 4 triệu tấn gaọ, thu nhập vào khoảng 800 triệu Mỹ kim, liệu có cân bằng được việc nhập cảng 9,5 tấn phân bón, cùng hàng trăm ngàn tấn hóa chất bảo vệ thực vật để có được lượng gạo xuất cảng trên hay không? Hay đó chỉ là một chính sách quản lư bao tử của người dân bằng cách bảo đăm một mức sống tối thiểu cho hàng triệu nông dân trên cả nước?

 

Việc xuất cảng hàng năm 900 triệu Mỹ kim qua việc xẻ gỗ đă để lại quá nhiều vấn nạn môi trường cho sự thất thoát rừng và những hệ lụy đă được phân tích ở phần trên, và mức thu nhập nầy có thể khỏa lấp được những mất mát do vấn nạn trên hay không? Hay nguồn tài nguyên căn bản của đất nước đang bị hao ṃn dần?

 

Theo một báo cáo mới nhất về Chỉ số Môi trường Bền vững 2005 (2005 Environmental     Sustainability Index) do Diễn đàn kinh tế nhóm họp tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 3, 2005, Việt Nam đă đứng cuối bảng trong 8 quốc gia ASEAN. Đó là Malaysia đứng đầu với 54,0 điểm, Miến Điện 52,8, Lào 52,4, Campuchia 50,1; và Việt Nam đứng chót bảng với 42,3 điểm. Chỉ số trên đo đạc do nhóm giáo sư ở Đại học Yale và Columbia (Hoa Kỳ) thực hiện, căn cứ vào 21 chỉ số môi trường như sau: khí thải nhà kính, phẩm chất nước, không khí, đất, sức khỏe môi trường, tŕnh độ khoa học và công nghệ, khả năng quản lư tài nguyên, khả năng giải quyết áp lục môi trường v.v... So với 117 quốc gia đang phát triển trên thế giới, Việt Nam được xếp vào hạng 98.

 

Tóm lại, mọi kế hoạch, định hướng, chiến lược đă được Việt Nam đề xướng từ 30 năm qua đă không được thi hành nghiêm chỉnh và đúng đắn, cũng như việc phát triển quốc gia hoàn toàn không đồng bộ với việc bảo vệ môi trường. Do đo hệ quả đương nhiên là t́nh trạng môi trường ngày càng xuống cấp tệ hại và cho đến nay, mọi biện pháp cứu chữa hầu như không thể thực hiện được.

 

Tuy nhiên, c̣n có một hy vọng là vào tháng 10,2003, trong một cuộc họp báo của Thủ tướng Việt Nam hiện tại Phan Văn Khải có tuyên bố rằng: Phát triển kinh tế và xă hội theo định hướng công nghiệp hóa:. Có thể đây là một chỉ dấu mơíù của chính sách kinh tế của Việt Nam hay không? Hay là chuổi từ định hướng xă hội chủ nghĩa theo sau chiến lược phát triển kinh tế cho đến nay có thể đă được lănh đạo Việt Nam nh́n nhận là đă thất bại và cần phải chuyển hướng tư duy? Cũng như Việt Nam sắp sửa cho nhóm họp Hội nghị Môi trường Toàn quốc 2005 tại Hà Nội vào 22 và 23 tháng tư tới đây để hoạch định lại kế hoạch trong đ̣n bẩy phát triển/bảo vệ môi trường cho những ngày sắp đến. Cũng cần nói thêm là vào ngày 22 và 23 tháng 4,2005 vừa qua, Hội nghị Môi trường ṭan quốc đă diễn ra tại Hà Nội. Trong 204 đề tài công bố chúng tôi thấy có hai đề tài nói về việc xử lư arsenic bằng phương pháp hóa học dùng giải pháp oxid đồng kết tủa (oxidation co-precipitation) do Nguyễn Thế Đồng và phương pháp dùng quặng mangan để tách của Nguyễn Thị Hà. Đây là hai phương pháp hóa học không thể áp dụng để xử lư As trong nguồn nước sinh hoạt được không hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên đây cũng là một cố gắng của những nhà làm khoa học Việt Nam cần đươ5c khích lệ.

 

Tóm lại, phát triển quốc gia không đi kèm với việc quản lư và kiểm soát môi trường sẽ đưa đất nước đến t́nh trạng kiệt quệ về tài nguyên và môi trường bị thoái hóa. Phát triển quốc gia không đi kèm với dân chủ hóa và nhân quyền hóa xă hội sẽ đưa đất nước đến kề cận với thảm họa diệt vong. V́, một khi cánh cửa dân chủ chưa mở được th́ tất cả tài nguyên, tài sản quốc gia sẽ tích lũy trong tay của một nhóm thiểu số cầm quyền; do đó, phúc lợi nầy sẽ không được chia xẻ đồng đều và công bằng theo nhu cầu của xă hội. Và đây, cũng là bế tắc chính yếu cần phải tháo gở của Việt Nam do công cuộc điều hành Đất và Nước không ứng hợp với chiều hướng phát triển bền vững từ 30 năm qua.

 

Mai Thanh Truyết

VAST 30/4/2005