Phỏng vấn kỹ sư Nguyễn Minh Quang VAST (02-03)

Unconverted ImageProducer: Truờng Giang

Kính thưa quý vị, trong Tạp Chí Khoa Học vào hôm 28, tháng Giêng, quý vị đã nghe phần đầu bài phỏng vấn kỹ sư Nguyễn Minh Quang, một chuyên gia am tường về thủy lợi vùng sông nước Cửu Long. Dựa vào các dữ kiện ghi nhận trên thực tế, ông đã giải thích lý do tại sao những năm gần đây, vùng đồng bằng sông Cửu Long thường xuyên bị lụt nặng. Hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị nghe tiếp phần cuối bài phỏng vấn kỹ sư Nguyễn Minh Quang.  
Tuy nhiên trước hết, một lần nữa, chúng tôi xin được giới thiệu tóm tắt tiểu sử ông Nguyễn Minh Quang. Trước năm 1975, ông từng là kỹ sư công chánh trường Cao Đẳng Công Chánh, Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ tại Sàigòn. 
Năm 1972, ông làm việc tại Ủy Ban Quốc Gia Thủy Tính và sau đó là Ủy Ban Quốc Gia Thủy Lợi trực thuộc Bộ Công Chánh và Giao Thông của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Ở chức vụ này, kỹ sư Nguyễn Minh Quang phụ trách nghiên cứu các dự án thủy lợi và chương trình đo đạc thủy học tại đồng bằng sông Cửu Long. 
Năm 1985, ông tốt nghiệp Cao Học Thủy Lợi tại trường đại học
Nebraska, Hoa Kỳ. Sau đó, ông làm việc tại Sở Thủy Lợi quận Broward, tiểu bang Florida, Hoa Kỳ. Ông phụ trách các dự án cấp thủy và lượng định sự ô nhiễm của nước ngầm. Năm 1990, ông làm việc trong công ty Stetson Engineers Inc., tại West Covina, tiểu bang California, Hoa Kỳ, với nhiệm vụ thảo kế hoạch khai thác và phát triển lưu vực. 

Tiếp tục cuộc phỏng vấn qua điện thoại, kỹ sư Nguyễn Minh Quang đã nêu lên những nét nổi bật về trận lụt năm 2002 vừa qua tại vùng đồng bằng sông Cửu Long so với các trận thủy tai vào những năm trước đây .... 

Kỹ sư Nguyễn Minh Quang: Trận lụt năm 2002 có một số đặc điểm mà tôi xin tóm tắt như thế này: thứ nhất, mực nước cao nhất thường được gọi là đỉnh lũ của sông Tiền tại Tân Châu và sông Hậu tại Châu Đốc trong năm 2002 thấp hơn mực nước cao nhất của các trận lũ lụt trước. Xin mở ngoặc ở đây, năm 1961 làtrận lũ lụt lớn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Đó là đặc điểm thứ nhất. 
Đặc điểm thứ hai là mực nước ngập sâu và kéo dài hơn ở hạ lưu. Đây chính là hậu quả của hệ thông đê và đập ngăn mặn được xây ở cửa sông rạch dọc theo bờ biển. Đặc điểm này được mô tả đầy đủ trong một bài báo đăng trên tờ Lao Động ngày 11, tháng 10, năm 2002 như sau: 
“Đến ngày 10, tháng Mười thì toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long đã có 10/12 tỉnh bị ảnh hưởng lũ triều cường, trừ hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau. Mực nước ở các huyện thị phía nam, các tỉnh lũ đầu nguồn đổ về kết hợp với triều cường nên đỉnh triều xuất hiện cao nhất từ trước đến nay và tràn vào hầu hết các huyện thị thành phố của các tỉnh.”  
Tôi xin được bổ túc thêm là mực nước cao nhất ở Cần Thơ năm 2002 đã lên đến mức kỷ lục là 1,95m. Và trong trận lũ lụt lịch sử năm 1961, trường tiểu học Võ Thị Sáu, hồi trước gọi là trường Nam và Nữ Tiểu học đó, thì học sinh vẫn đi học như thường bởi vì nước ngập không bao nhiêu. 
Đặc điểm thứ ba của trận lụt năm 2002 là thiệt hại về người và vật chất. Thiệt hại về vật chất trong năm 2002 được ước tính khoảng 456 tỉ đồng, tức là khoảng 29 triệu đô-la. Có tổng cộng 170 người chết trong năm 2002, đặc biệt là 89% số người chết trong năm 2002 là trẻ em. Tỉ lệ này tăng từ 69% trong năm 2000 lên 79% trong năm 2001. 

Trường Giang: Một trong ba đặc điểm mà ông vừa nêu ra, có yếu tố triều cường. Mực nước biển dâng cao có phải vì ảnh hưởng của hiện tượng nhà kính không?  

Kỹ sư Nguyễn Minh Quang: Dạ thưa, sông rạch ở đồng bằng sông Cửu Long đều chịu ảnh hưởng của thủy triều. Nhưng trong mùa lũ, ảnh hưởng này chỉ có tác dụng nhất thời và cục bộ ở vùng ven biển và ven sông trong thời gian nước rong, tức đầu tháng hoặc giữa tháng âm lịch. Ảnh hưởng của thủy triều không còn nhận thấy ở vùng xa biển như Tân Châu hoặc Châu Đốc trong mùa lũ. 

Trường Giang: Theo ông, phương pháp chống lụt truyền thống xưa nay là đắp đê có tác dụng hữu hiệu gì không trong vùng đồng bằng sông Cửu Long? 

Kỹ sư Nguyễn Minh Quang: Như quý thính giả đã biết, từ ngàn xưa, ông cha ta đã xây dựng một hệ thống đê điều ở đồng bằng sông Hồng để ngăn ngừa lũ lụt cho vùng đồng bằng này. Trong chiều dài lịch sử, cái lợi và cái hại của nó đã là một đề tài tranh cãi; tuy nhiên, biện pháp ngăn ngừa lũ lụt này dường như đã trở thành một truyền thống và đã được mang ra áp dụng cho đồng bằng sông Cửu Long từ sau năm 1975.  
Thế nhưng, điều kiện địa hình và thủy học của đồng bằng sông Cửu Long thì không giống với điều kiện địa hình và thủy học của đồng bằng sông Hồng; cho nên, việc đắp đê đắp đập ở đồng bằng sông Cửu Long chẳng những không mang lại tác dụng tương đối như ở đồng bằng sông Hồng mà ngược lại, đã, đang và sẽ có những tác dụng ngược làm cho tình hình lũ lụt thêm nghiêm trọng, thí dụ như lụt sâu hơn và kéo dài hơn và quan trọng hơn hết, là làm suy thoái môi trường và có ảnh hưởng đến đời sống và sức khỏe của cư dân trong vùng.  

Trường Giang: Chắc ông cũng biết là thời gian gần đây, nhà nước Việt
Nam cho xây dựng các cụm tuyến dân cư trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo ông, liệu đây có phải là cách chống lụt khả thi nhất không? 

Kỹ sư Nguyễn Minh Quang: Dạ thưa, theo sự hiểu biết của tôi, chánh quyền Việt Nam xem hệ thống đê bao như một biện pháp “phòng chống lũ lụt” giảm thiểu thiệt hại. Nhiều hệ thống đê bao đã được chánh quyền địa phương xây dựng sau trận lũ lụt năm 2000 để bảo vệ các vùng đông dân cư. Nếu các hệ thống đê bao này được xây dựng đàng hoàng và vững chắc, tôi nghĩ là chúng có thể có hiệu quả cục bộ. Nhưng theo tin tức báo chí trong nước, người dân ở nhiều nơi đã khổ sở vì hệ thống đê điều này vì hệ thống này bị vỡ. 
Tuy nhiên, hệ thống đê bao này lại khiến cho tình hình lũ lụt nói chung ở đồng bằng sông Cửu Long trở nên nghiêm trọng, và hơn thế nữa, là một trong những nguyên nhân chính yếu làm suy thoái môi trường ở đồng bằng sông Cửu Long.  
Về phương diện thủy học, nó làm giảm diện tích dòng chảy nên mức ngập lụt ở ngoài các hệ thống đê bao sẽ sâu hơn và thời gian ngập lụt sẽ kéo dài hơn. Thêm vào đó, vì thiếu nghiên cứu và phối hợp, cho nên hệ thống đê bao của địa phương này có thể làm cho hệ thống đê bao của địa phương kế cận hết tác dụng và phải được nâng cao. Do đó, tình trạng “Sơn Tinh Thủy Tinh” cứ tiếp diễn.  
Theo một bài báo đăng trên tờ Sài Gòn Giải Phóng ngày 10, tháng 11, năm 2001, tôi xin trích nguyên văn là “... các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy, Ủy Ban Nhân Dân các tỉnh có ý kiến rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến lũ lụt ngập sâu và kéo dài như hiện nay là do chúng ta xây dựng đê bao tràn lan.”  
Còn về phương diện môi trường, ảnh hưởng của các hệ thống đê bao lại càng nghiêm trọng hơn vì nguy cơ ô nhiễm nước có thể có ảnh hưởng đến sức khỏe của đa số người dân. Sau trận lũ lụt năm 2001, một số vùng trong tỉnh Tiền Giang bị ô nhiễm nguồn nước.  
Theo một bài báo trên tờ Lao Động ngày 13, tháng 12, năm 2001 mà tôi đọc được thì họ cho rằng “Theo đánh giá của Sở Khoa Học-Công Nghệ và Môi Trường tỉnh Tiền Giang, nguyên nhân gây ra chủ yếu là từ hệ thống đê bao chằng chịt do nhân dân xây dựng đã gây cản trở lưu thông của dòng nước. Các tuyến đê bao cũng làm ngưng tụ các chất hữu cơ, chất thải động vật, chất thải sinh hoạt... từ thượng nguồn đổ về. Mặt khác, do suốt 3 tháng mùa lũ, nước trong các vùng đê bao không thoát được ra ngoài cộng với sự phân hủy của các chất hữu cơ, chất thải động vật... gây ô nhiễm.” Và điều này cũng đã xảy ra trong trận lũ lụt năm 2002.  

Trường Giang: Xin phép được hỏi ông câu cuối cùng, phương cách chận đứng lũ lụt ở đồng bằng sông Cửu Long, theo ông, phương cách nào là hữu hiệu nhất? 

Kỹ sư Nguyễn Minh Quang: Lũ lụt là một hiện tượng tự nhiên, cho nên không có cách gì để “chận đứng” một cách triệt để hết. Tuy nhiên, chúng ta có thể có nhiều 
biện pháp để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu thiệt hại.
 Trong nhiều cuộc phỏng vấn sau trận lũ lụt năm 2000, tôi có trình bày một số biện  pháp để ngăn ngừa hoặc giảm thiểu thiệt hại do lũ lụt lớn ở đồng bằng sông Cửu  Long gây ra. Còn các trận lũ lụt nhỏ và trung bình cần phải được duy trì vì chúng  mang đến nhiều phúc lợi hơn là thiệt hại. Tôi xin tóm tắt các biện pháp đã trình  bày như sau. 
Trên lý thuyết, tình hình lũ lụt trong lưu vực sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long có thể tránh được, nếu có một dự án ngừa lụt cho toàn lưu vực. Phần chính của dự án nầy là những hồ chứa nước, với mục đích chính là ngừa lụt.  Nhưng mà trên thực tế, một dự án như vậy khó thực hiện được vì trong tháng 10, năm 2002 vừa qua, Ủy Hội Sông Mekong có đề nghị một kế hoạch quản trị lũ lụt chú trọng đến các biện pháp giảm thiểu thiệt hại và học cách “sống chung với lũ” thay vì chú trọng đến các dự án ngừa lụt như hồi thập niên 50 và 60. Những dữ kiện cũng như thực tế trong những trận lũ lụt vừa qua cho thấy là “Đào nhiều bao nhiêu thì nước lũ tràn vô nhiều bấy nhiêu, đắp cao bao nhiêu thì nước lụt dâng cao bấy nhiêu”. Do đó, việc trước tiên phải làm là phải duyệt xét lại toàn bộ ảnh hưởng các hệ thống kinh thủy lợi, các công trình ngăn mặn, các hệ thống đê bao, và hệ thống đường giao thông hiện có.  
Nếu cần, các công trình này phải được điều chỉnh hoặc tháo gỡ ngay lập tức. Các công trình đầu mối phải được thực hiện để kiểm soát lưu lượng lũ thay vì đào thêm hoặc nạo vét kinh để thoát lũ. Cũng không nên nâng cao mặt đường giao thông, vì mặt đường được nâng cao bao nhiêu thì nước ngập sẽ dâng cao bấy nhiêu.  
Một chương trình đo đạc thủy học và chất lượng nước cho toàn thể đồng bằng sông Cửu Long phải được soạn thảo và thi hành càng sớm càng tốt để thu thập dữ kiện căn bản cho việc soạn thảo kế hoạch và điều hành các dự án phát triển sau này. 
Không nên phát triển những vùng ngập sâu và tránh những đường thoát lũ thiên nhiên trong các trận lũ lụt vừa qua. Nên phục hồi càng gần càng tốt chế độ thủy học tự nhiên của đồng bằng sông Cửu Long như sự phục hồi chế độ thủy học của Everglades ở tiểu bang Florida.  
Không cho bất cứ một công trình nào, dù lớn hay nhỏ, được xây cất trong những đường thoát lũ này, và nếu có thể được, cải thiện khả năng thoát lũ của chúng bằng cách dẹp các chướng ngại vật như cây cối, nhà cửa, cầu cống, công trình thủy lợi, và những công trình khác. Thiết lập các trung tâm tạm trú an toàn cho dân chúng. Soạn thảo và sẵn sàng áp dụng các kế hoạch khẩn cấp từ trung ương đến địa phương. 
Các biện pháp có tính cách lâu dài bao gồm việc duyệt xét lại tác động của các công trình thủy lợi và giao thông, quy hoạch việc sử dụng đất, soạn thảo quy cách xây dựng và thúc đẩy việc áp dụng, soạn thảo kế hoạch phát triển toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long, và hợp tác với các nước trong lưu vực sông Mekong và các cơ quan quốc tế để thực hiện các dự án ngừa lụt. 

Trường Giang: Kính thưa quý vị, bài phỏng vấn kỹ sư Nguyễn Minh Quang đến đây là hết. Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành cảm tạ kỹ sư Nguyễn Minh Quang đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này. Trường Giang xin thân ái chào tạm biệt và xin hẹn gặp lại quý vị cũng trong mục này vào kỳ sau.