Nghịch Lư Trong Phát Triển Kinh Tế Bắc Nam

Economical Development Impacts between North & South Việt Nam

 

Từ khi có chính sách đổi mới năm 1986 trở đi, Việt Nam đă có nhiều tiến bộ trong việc phát triển kinh tế toàn quốc. Nhưng khi soi rọi vào công cuộc phát triển chung của cả nước, chúng ta thấy có nhiều điều không ổn trong việc đầu tư, phân phối nguồn vốn phát triển cho các vùng đặc biệt là những vùng ở miền Bắc và Nam Việt Nam. Những điều không ổn trên lại đưa ra thêm nhiều nghịch lư, khi các số thống kê về lợi tức, và khả năng thu hoạch lại đi theo chiều nghịch với số vốn đầu   ban đầu. Từ đâu nảy sinh ra những nghịch lư trên? Tc KH&MT kỳ nầy tiếp chuyện với TS MTT hầu phân tích nhiều khía cạnh khác nhau trong lănh vực phát triển để từ đó có thể đi đến kết luận về sự hiện hữu của các nghịch lư trong phát triển Bắc Nam.

 

Hỏi 1: Trước hết, xin TS MTT cho biết tổng quát định nghĩa về hai vùng kinh tế Bắc và Nam trong việc so sánh về các nghịch lư trong phát triển?

Đáp 1: Trước hết, có thể nói Hà Nội và các tỉnh phụ cận là một trung tâm kinh tế và quyền lực, có những cảng quan trọng ở gần như Hải Pḥng, và các tỉnh có tầm vóc kinh tế như Quảng Ninh, Hải Dương, Hà tây, Vĩnh Phúc. Đối lại, ở phiá Nam có thành phố Sá G̣n (Tp Hồ Chí Minh) và các tỉnh lân cận như Đồng Nai, B́nh Dương, Long An, Bà Riạ.

 

Hỏi 2: V́ lư do ǵ TS đă minh định hai ranh giới Bắc Nam trên để phân định vấn đề phát triển?

Đáp 2: Hai vùng vừa kể trên là hai vùng đứng về mặt địa lư và chính trị có thể được xem như là hai đối trọng Bắc Nam để so sánh về phát triển. Vào năm 2002, Hà Nội và các tỉnh kể trên có 10 triệu cư dân, tăng 2,6% so với năm 1999; trong lúc đó thành phố Sá G̣n và các tỉnh lân cận trong thời điểm nầy có 5,1 triệu cư dân, tăng 5,4%  so với năm 1999.

 

Theo Thời Báo Kinh Tế Việt Nam số 4/2004 qua bài viết Kim ngạch xuất khẩu của các tỉnh năm 2003, kim ngạch xuất khẩu trung b́nh tính theo đầu người ở phía Bắc (gồm Hà Nội và các tỉnh lân cận trên) là $50:00/năm và ở phía Nam (Sá G̣n và các tỉnh chung quanh) là $785:00/năm. Hay nếu tính bằng kim ngạch xuất khẩu, trong năm 2003, phía Nam đạt được 4 tỷ Mỹ kim, không tính đến dầu khí. C̣n phía Bắc cũng trong thớ gian nầy chỉ thu được $0,50 tỷ tính luôn cả than đá. Đó là một trong những nghịch lư lớn cho sự phát triển giữa hai miền.

 

Hỏi 3: V́ đâu TS gọi đó là những nghịch lư?

Đáp 3: V́ Phía Bắc có nhiều ưu tiên về địa lư, chính trị, và được đặt ưu tiên phát triển hàng đâù về hạ tầng cơ sở như đường xá, cầu cống, ... chiếm ưu thế trong xây dựng so với phía Nam. Thêm nữa, mọi ưu đăi về thủ tục hành chánh, cũng như quy hoạch đều đứng trên và trước so với phía Nam.

 

Phía Bắc có tất cả những ưu điểm và ưu thế mà vẫn không phát triển được. Như vậy là có vấn đề. Và vấn đề trước mắt là phải kể đến con người và năo trạng của cấp điều hành kinh tế phía Bắc.  Chúng tôi xin đan cử lần lược ba khía cạnh khác nhau của hai miền Bắc và Nam. Đó là yếu tố nhân sự, tŕnh độ chuyên môn, và chính sách phát triển.

 

Hỏi 4: Xin TS nói về khía cạnh về yếu tố nhân sự của hai miền?

Đáp 4: Nh́n tổng quát và so sánh phát triển của cả hai phía Bắc Nam, hầu hết mọi người đều nhận thức rơ nét rằng: Miền Bắc đă hấp thụ chủ nghiă xă hội từ năm 1945 và miền Nam từ năm 1975. Ba mươi năm sai biệt đă tạo cho người dân sống ở miền Bắc nhiều quán tính ảnh hưởng đến cung cách làm kinh tế và phát triển khác hơn so với phía Nam.

 

Phía Bắc, trong 60 năm qua đă kinh qua hệ thống kinh tế hóa tập trung thể hiện qua các hợp tác xă, công ty quốc doanh. Do đó cung cách tiếp cận với kinh tế thị trường tự do, vốn đă quá quen thuộc trong cung cách làm ăn ở phía Nam, vẫn c̣n lúng túng và gây thêm phiền toái trong thủ tục nhất là khi giao tiếp với những nhà đầu tư ngoại quốc. Từ đó, các nhà đầu tư nội địa cũng như ngoại quốc vẫn c̣n e ngại không muốn làm ăn với các tỉnh phía Bắc.

 

Thêm nữa, quán tính thụ động Xin - Cho - Chờ của cấp thừa hành và lănh đạo kỹ thuật kinh tế đă làm thui chột mọi sáng kiến cải cách kỹ thuật v́ sợ sệt cấp trên. Tất cả đều mang tâm trạng thụ động, chỉ chờ lănh đạo cấp cao nhất ra chỉ thị. Từ cán bộ cho đến công nhân viên đều mang tâm khảm trên, cho nên bộ máy hành chánh ngày càng nặng nề hơn nhưng hoạt động không hữu hiệu, và chắc chắn sẽ là một cản lực lớn cho việc phát triển kinh tế. Với cung cách hành xử như thế, làm thế nào các nhà đầu tư nội địa và ngoại quốc có can đảm ghé mắt vào.

 

Hỏi 5: C̣n về tŕnh độ chuyên môn th́ sao, thưa TS?

Đáp 5: Từ hệ quả qua sự chậm phát triển, nhân sự chuyên môn ở phía Bắc bắt buộc phải di chuyển vào phía Nam để xây dựng tương lai, do đó chúng ta có thể hiểu được dân số trong vùng phía Nam tăng cao hơn phía Bắc trong cùng khoảng thời gian (5,4% so với 2,6%) mặc dù dân số ở vùng nầy cao gấp 2 lần dân số sống ở phía Nam. Sự kiện nầy giải thích được tại sao lực lượng lao động ở phía Nam tăng lên 479.000 lao động từ năm 2000 đến 2003, so với phía Bắc là 264.000.

 

Việc di dân vào phía Nam, quả thật là một việc hiển nhiên. Người lao động, cũng như những nhân sự chuyên môn phải t́m đến những môi trường có điều kiện làm việc nhiều hơn, dễ dăi hơn, và có một đời sống kinh tế dồi dào hơn. Đó là các tỉnh phía Nam.

 

Hơn nữa, phía Nam, dù đă chịu 30 năm dưới sự quản lư của hệ thống kinh tế xă hội chủ nghiă, nhưng vẫn c̣n mang nặng những vấn vương c̣n lại trong thời kinh tế thị trường trước kia. Đây là những điểm thuận lợi nhất để giải thích lư do phát triển kinh tế mạnh mẽ ở phía Nam. V́ có đầu óc cởi mở, dễ tiếp cận với doanh thương ngoại quốc, cung cách ứng xử có tính cách chuyên môn và chuyên nghiệp, những rào cản qua thủ tục hành chánh tương đối giản dị hơn phía Bắc, cho nên các tư nhân lớn dễ dàng đầu tư vào vùng nầy. Trong lúc đó, v́ c̣n nhiều quán tính thụ động, cán bộ quản lư phía Bắc thích điều hành doanh nghiệp nhà nước hơn v́ không cần động năo để đẩy mạnh sản xuất, hay tăng cường phúc lợi cho cơ sở. Lời hay lỗ đều có nhà nước lo. Và điều hành doanh nghiệp quốc doanh hoàn toàn không có ư thức trách nhiệm là mong t́m lợi nhuận tối đa cho cơ sở. Đó là lư do tại sao hầu hết các quốc doanh Việt Nam điều phải được bù lỗ hoặc bị phá sản.

 

Hỏi 6: C̣n chính sách phát triển th́ khác nhau như thế nào?

Đáp 6: Chúng ta có thể xét qua chính sách đầu tư của Việt Nam. Đứng về phương diện đầu tư, luật doanh nghiệp đă ra đời từ năm 2000, trong đó ghi rơ điều kiện xin giấy phép hoạt động tương đối có bài bản, quy cũ hơn trước. Do đó, số doanh nghiệp tư nhân xin gia nhập tăng lên rất nhiều. Hiện nay, có vào khoảng trên 70.000 doanh nghiệp đăng kư hoạt động. Đó là phần do tư nhân, cũng như tư nhân hợp tác với nhà nước theo thể thức liên doanh. Nhưng đó chỉ là những thủ tục trên giấy tờ. Trên thực tế, vẫn c̣n phảng phất doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp quốc doanh dưới dạng tư nhân.

Một số tỉnh ở phía Bắc có khuynh hướng dễ nhận đăng kư hoạt động của những doanh nghiệp tư nhân nhưng có liên hệ tốt với chính quyền, hoặc những nhân sự có quyền lực của chế độ. Từ đó, hệ quả từ các liên hệ trên là, dù cùng là doanh nghiệp tư nhân cả, nhưng những doanh nghiệp tư nhân nào không có liên hệ tốt sẽ khó tranh dành được các ưu đăi của cơ quan quản lư địa phương. Và điều nầy đă biến một số doanh nghiệp tư nhân trở thành một h́nh thức quốc doanh mà thôi. Sự kiện trên đă xảy ra rất nhiều nơi ở miền Bắc. Dĩ nhiên là phát triển trong điều kiện trên phải bị tŕ trệ nếu không nói là tụt hậu so với phía Nam.

 

Hỏi 7: Để kết luận TS có nhận định bổ túc thêm về các nghịch lư kể trên như thế nào?

Đáp 7: Qua các phân tích trên, chúng ta nhận thấy rằng các tỉnh phía Bắc, chung quanh Hà Nội, có đủ tất cả điều kiện cần thiết để đẩy mạnh phát triển kinh tế hơn các tỉnh phía Nam, chung quanh Sá G̣n. Các điều kiện gồm cả thiên thời, địa lợi, và nhân ḥa. Thiên thời là do Việt Nam đang ở vào thời điểm toàn cầu hóa và thế giới Tây Phương rất muốn và đang trợ giúp Việt Nam có ổn định về an ninh để làm đối trọng cho các bành trướng đế quốc phương Bắc. Địa lợi là do địa thế và nhu cầu của người dân ở vùng nầy thuận lợi hơn cho tiến tŕnh phát triển kinh tế  nhu cầu của người dân sống nơi đây lớn hơn nhiều so với người dân sông ở phía Nam. Và ưu điểm cao nhất là nhân ḥa, vùng phía Bắc được cả một tập thể lănh đạo Việt Nam tiếp sức và triệt để ủng hộ trong cả chính sách, nhân sự, và ưu tiên đầu tư ... so với phía Nam.

 

Nhưng ba thuận lợi trên không đem lại ưu thế về phát triển kinh tế cho phía Bắc, mà là một sự phát triển thụt lú so với phía Nam. Chính yếu tố nhân ḥa đă làm tiêu diệt tính cạnh tranh về phát triển kinh tế, một đặc tính người Việt ở miền Bắc có ưu điểm cao hơn nhiều so với người miền Nam trước đây.

 

Nghịch lư trong phát triển giữa phía Bắc và phía Nam ít ra cũng nêu lên được một số bế tắc của lănh đạo Việt Nam trong lănh vực phát triển quốc gia. Ngày nào các nghịch lư nầy c̣n tồn tại, niềm hy vọng cho kinh tế Việt Nam cất cánh thành Rồng Đông Nam Á vẫn c̣n xa vời vợi. 

 

Kính chào Quư thính giả của Đài ACTD