Phát Huy Sáng Kiến Kỹ Thuật Trong Phát Triển Tại Việt Nam

 

Kễ từ khi chiến tranh chấm dứt, tiếng bom đạn hoàn ṭan im hơi trên dăi đất h́nh chữ S, ṭan cơi Việt Nam đă có một lănh đạo mới và đă bắt đầu kế họach phát triển quốc gia ngay sau ngày 30/4/75. Trước cuộc qua phân của đất nước, người dân miền Nam ngay từ ngày đầu tiên sau chiến tranh đă phải hứng chịu nhiều hụt hẫng và mang một tâm trạng thật phức tạp, nhất là giới trí thức. Dù khách quan hay chủ quan, trong tận đáy sâu của mỗi người đều tự đặt câu hỏi cho chính ḿnh: Làm thế nào để thích ứng và hội nhập vào chế độ mới? Cho đến hôm nay, sau 29 năm chấm dứt chiến tranh, thiết nghĩ cũng không dễ để có một câu trả lời thích đáng!

 

Lư do là t́nh tự dân tộc dường như thiếu vắng không thể hiện ra được nơi đây v́ những rào cản vô h́nh ảnh hưởng đến tâm cảnh của mỗi người dù ở trong nước hay hải ngoại. V́ đâu nên nỗi? Xin nhường câu trả lời cho mỗi người trong chúng ta.

 

Từ các uẩn khúc riêng tư của từng cá nhân một, do đó việc hội nhập vào xă hội mới thể hiện muôn vàn h́nh thức khác nhau. Duy có một điểm chung duy nhất là làm thế nào để có thể sống c̣n, nhất là về phương diện đời sống kinh tế gia đ́nh. Đó là điều mà mọi người đều phải trực diện và quan tâm đến nhiều nhất, và nhu cầu trên đă thúc đẩy người dân nhất là giới trí thức cần phải phát huy sáng kiến để băo vệ nồi cơm gia đ́nh.

 

Bài viết nầy có mục đích ghi lại trung thực một vài phát huy trong giai đọan giao thời tạm được định mốc thời gian từ 1975 đến 1985. Giai đọan nầy có thể được gọi là thời kỳ quá độ. Và giai đọan ổn định phát triển từ khi có chính sách đổi mới năm 1986 cho đến ngày nay. Các thí dụ điển h́nh sau đây có thể cho chúng ta có thêm một cái nh́n đậm nét hơn về xă hôị Việt Nam trong hai giai đọan trên để từ đó rút tỉa ra những kết luận cá biệt của từng người về chế độ đang lănh đạo ṭan cơi đất nước Việt Nam.

 

Giai đoạn giao thời

 

            Trong giai đọan nầy cần phải kễ đến những biến động làm xáo trộn xă hội tận gốc rễ. Các biến động như: chiến dịch đổi tiền, đánh tư sản mại bản, học tập cải tạo tập trung v. v... Về phương diện kinh tế, hầu hết những mặt hàng tiêu dùng hàng ngày lần lần biến mất trên thị trường do đầu cơ hoặc do thiếu nguyên liệu sản xuất. Các mặt hàng như x́ dầu, bột ngọt, xà bông cục, xà bông bột, kem đánh răng, rượu, và nước ngọt. Có thể nói đây là một thời kỳ quá độ trong quá tŕnh tiến lên xă hội chủ nghĩa. Từ đó nảy sinh ra nhiều sáng kiến trong dân gian để bương chảy v́ bản năng sinh tồn cũng co,ù hay v́ trục lợi cũng không thiếu. Xin đan cử ra đây vài thí dụ cụ thể: Kem đánh răng: Hàng tiêu dùng nầy được trộn thêm vôi và hàn the (borax) với mục đích vưà làm tăng trọng lượng và vừa ngậm nước (giữ nước) để cho kem c̣n giữ ở thể đặc không bị chảy nước. Do đó phẩm chất của kem rất kém và có thể làm lỡ (phỏng) miệng người đánh răng.

 

Xà bông: Qua việc khám phá đất sét bentonite của hai vị giáo sư hóa lư hữu cơ và địa chất ở Đại học Khoa học Sàig̣n trong chuyến trí thức đi vào … thực tế ở Thái Mỹ. Đây là một loại đất sét có đặc tính hấp phụ (adsorption) các chất dầu mỡ. Do đó, chương tŕnh nầy biến thành một dự án nghiên cứu sản xuất thử ở cấp thành phố. Đất sét được thêm vào trong quy tŕnh sản xuất xà bông cùng với dầu dừa và xút (NaOH). V́ vậy, hai hóa chất sau được giảm thiểu tối đa để có thêm lợi nhuận. Ở nhiều nơi, vôi và borax cũng được thêm vào để tăng trọng. Sau cùng xà bông sẽ không bao giờ đạt tiêu chuẩn 72% dầu như xà bông Cô Ba trước kia. Được biết ở nhiều cơ sở sản xuất loại xà bông trên, lượng dầu có thể giảm xuống c̣n khoăng độ 30% dầu. Do đó, tính tẩy rữa của xà bông cũng giảm theo lượng dầu trong quy tŕnh sản xuất.

 

Sản xuất x́ dầu: Trên nguyên tắc, có nhiều phương pháp để sản xuất x́ dầu: hoặc từ xương heo, ḅ được đun dưới áp suất trong một dung dịch acid, hoặc dùng khoai ḿ hay các loại đậu. X́ dầu cũng là một sản phẩm phụ trong quá tŕnh sản xuất bột ngọt bằng phương pháp vi sinh hay hóa học. Quan trọng hơn hết là hoá chất chống mốc meo được thêm vào để bảo quản x́ dầu trong một thớ gian dá. Hóa chất xử dụng và được chấp thuận dùng trong thực phẩm là Natrium benzoate (C6H5ONa) ḥan ṭan bị khan hiếm trong thời gian nầy. Tuy nhiên, công đoạn trên đă được thay thế bằng thuốc sát trùng dùng để chống mốc qua các sáng kiến kỹ thuật của dân chúng. Thêm nữa, trước kia (trước 1975), trong quá tŕnh sản xuất bột ngọt của các nhà máy ở B́nh Đông (Sàig̣n), trung b́nh 1L thành phẩm có thể kết tinh được 90-110 gram bột ngọt (MSG-Mono Sodium Glutamate) c̣n được gọi là ḿ chính. Sau nầy, v́ muốn có nhiều sản phẩm phụ phế thải là x́ dầu để cho công nhân và nhất là ban giám đốc làm kế hoạch  bán x́ dầu ra ng̣ai thị trường để thủ lợi riêng. Do đó bột ngọt được kết tinh không bao giờ đạt tiêu chuẩn hơn 12 g/L v́ bột ngọt ở dạng lỏng đă được biến thành phế thải x́ dầu…trong sản xuất.

 

Xá xị con cọp BGI: Sau 75, công ty la de và nước ngọt BGI của Pháp bị tiếp quản, mọi nguyên vật liệu nhập cảng đều bị đ́nh chỉ. Trong việc sản xuất xá xị cần có một nguyên liệu thực vật chánh là đại hồi (anise), đây cũng là nguyên liệu chánh trong việc nấu nước phở. Cây đại hồi không mọc ở miền Nam, nhưng mọc rất nhiều ở vùng Ḥang Liên Sơn ngoài Bắc. Có lẽ v́ miền Bắc chưa có nhân sự để tiến hành việc chưng cất tinh dầu, và các hột đại hồi được chuyển tải vào Nam để tinh chế. Tinh dầu đại hồi tinh chế rất trong màu nghệ, có tỷ trọng (density) là 0,94 và có một đặc tính đặc biệt là khi thêm nước vào th́ biến thành màu đục như sữa. Nắm bắt được tính chất nầy, tinh dầu được thêm nước (tỷ trọng là 1,0) và thêm rượu cồn 90% (alcohol, tỷ trọng 0,82) để mang dung dịch nước + tinh dầu về lại tỷ trọng ban đâù của tinh dầu tinh khiết có dạng trong nguyên thủy. Làm như vậy để tăng lượng “thành phẩm trong quá tŕnh chưng cất để có thêm điểm trong quá tŕnh chưng cất. Thêm nữa, ngoài thị trường lại có thêm một loại rươụ khai vị (appéritif) đặc biệt của Pháp: đó là rượu Pernod được chế biến từ một lượng đại hồi dư thừa từ khâu sản xuất theo sáng kiến trên. Thêm một tác hại nguy hiễm khác là trong rượu cồn 90% dùng để pha chế rượu Pernod có chưá một phế phẩm, đó là rượu methylic, rất độc có thể làm chết người, và dĩ nhiên có nhiều tai nạn tử vong khi uống rượu Pernod nầy. Đối với việc chưng cất rượu từ gạo, nếp hay đường mía việc pha cồn để làm tăng độ rượu cũng như việc thêm thuốc trừ sâu rầy để cho rượu được trong trẻo và bắt mắt. Lại có thêm bao nhiêu tai nạn cũng v́ sáng kiến độc đáo trên.

 

Trên đây là những thí dụ điển h́nh cho việc phát huy sáng kiến ở thời kỳ quá độ. Bước sang giai đoạn tiếp theo, xă hội Việt Nam tương đối ít xáo trộn so với 10 năm đầu. Số cán bộ quản lư, khoa học kỹ thuật từ miền Bắc vào đă tề tựu đầy đũ và hiện diện trong tất cả mọi lănh vực sản xuất, giáo dục, nghiên cứu ở miền Nam. Do đó lượng sáng kiến kỹ thuật trong giai đọan nầy càng tăng cao và có tầm quan trọng lớn, thể hiện một t́nh trạng trăm hoa đua nở trên quê hương.

Giai đoạn phát triển ổn định: Từ năm 1986 trở đi, bộ mặt xă hội có phần chuyển đổi theo chiều hướng thuận tiện hơn so với 10 năm trước đây. Lượng hàng tiêu dùng được sản xuất nhiều hơn và xuất hiện cùng khắp. Các mặt hàng ngày càng bắt mắt, trông đẹp hơn nhất là mặt hàng trái cây, rau đậu… Chúng ta sẽ dễ dàng trông thấy những cọng rau muống quá khổ, những lá rau thơm to rộng không kém ǵ tại Hoa kỳ, những trái dưa hấu xanh bóng ngoài mặt nhưng bên trong có thể chứa đầy chất lỏng v. v Trên mặt báo, trong ṿng 5 năm trở lại đây, hầu như ngày nào cũng có chạy tin trúng độc                  thực phẩm ở căng tin nầy, hoặc ở một buổi ăn tập thể nọ, ngay cả tiệc đám cưới cũng có thể xảy ra những vụ trúng độc.

 

Đó là kết quả của những sáng kiến kỹ thuật làm tăng trưởng trái cây, rau đậu hay bảo quản thực phẩm lâu hư, giữ màu cây traí tươi tốt. Và các hoá chất được xử dụng để làm tăng phẩm chất, năng xuất cùng bảo quản thực vật trên là formol (HCHO-hóa chất dùng để ướp xác người và thú vật, rất độc hại), sulfide, borax, hoá chất diệt cỏ dại (nếu dùng với số lượng ít sẽ biến thành một kích thích tố tăng trưởng tế bào của cây, trái). Theo thống kê năm 2001, hàng năm tỷ lệ ngộ độc ở Việt Nam là 800 bệnh nhân trên một triệu dân và tỷ lệ tử vong là 15 người/1 triệu dân.

 

Đó là những phát huy sáng kiến có mục đích trục lợi về kinh tế và có tính cách cá thể. Ngoài ra cũng có những dự án phát huy sáng kiến có tầm cở quốc gia đă được phổ biến rộng răi cũng như đem ra áp dụng ở nhiều nơi. Các thí dụ điển h́nh sau đây cho thấy thực trạng về phát huy sáng kiến trên.

 

Chính sách con tôm ôm cây lúa: Chính sách nầy có mục đích nuôi tôm trong ruộng lúa đă được đem vào áp dụng rộng răi taị Cần Giuộc, Rạch Kiến, Long Đinh, Cần Đước (Tân An) và vùng Bạc Liêu, Trà Vinh, Cà Mau trong ṿng 5 năm trở laị đây. Phương pháp nầy dựca theo nguyên tắc trồng lúa trên nước lợ (bán mặn) để có điều kiện nuôi tôm. Chất phế thải của tôm sẽ là nguồn phân bón cho lúa, do đó môi trường nước nuôi tôm sẽ không bị ô nhiễm. Muốn làm được thế cần phải đào hào chung quanh ruộng lúa ít nhất là 1,2 m sâu để tôm có chỗ trú ngụ. Do đó, diện tích trồng lúa bị thu hẹp lại và năng suất cũang sẽ thấp v́ trồng trong nước lợ. C̣n con tôm nuôi trong điều kiện trên cũng không phát triển được như ư, không kễ đến việc tôm ăn phá chân luá làm cho cây lúa bị chết nhiều hơn. Tóm lại kế họach nầy đă làm nông dân bị vỡ nợ trong những năm gần đây sau một hay hai mùa đầu có kết quả khích lệ. Thống kê tại tỉnh Trà Vinh năm 2002 thể hiện rơ ràng sự that bại của việc nuôi tôm ở tỉnh nầy. Năm 1990, ṭan tỉnh Trà Vinh có gần 500 gia đ́nh không có đất hữu sản; cho đến năm 2002, con số gia đ́nh không có đất tăng lên hơn 5000 v́ đất đă bị ngân hàng truất hữu do thất bại trong việc nuôi tôm, do đó không thanh tóan được tiền vay nợ của ngân hàng.

 

Ruồi lính đen: Đây là một khám phá thật sáng taọ của một tiến sĩ trẻ Việt Nam. Trên báo Nhân Dân trung tuần tháng 2/2001 có đăng một loạt bài phóng sự của báo Tuổi Trẻ, kư tên Phú Đức dưới tựa đề Ông tiến sĩ và những chú ruồi lính đen. Bài báo tường thuật khá tường tận khám phá của Trần Tấn Việt, tiến sĩ côn trùng học vừa tốt nghiệp ở Nhựt về. Tiến sĩ Việt miệt mài đi t́m ấu trùng của ruồi lính đen với một chuyên gia nước ngoài. Ruồi lính đen dịch từ tiếng Anh Black soldier fly và có tên khoa học là Hermetia Illucens đă được các nước phát triển ứng dụng trong việc xử lư chất thải hữu cơ. Sau nhiều tuần lễ truy t́m, sau cùng TS Việt đă phát hiện ruồi lính đen ngay trong vườn nhà tại Hiệp B́nh Chánh, quận Thủ Đức.

 

Kết quả nghiên cứu của TS Việt đă cho thấy những thành tựụ sau: Trong một thùng rác 1m2  chứa  14 Kg rác, chỉ cần 14 giờ cho việc xử lư toàn bộ rác sinh hoạt, 24 - 48 giờ cho phế phẩm từ quá tŕnh chế biến thực phẩm hay gia súc, 7 - 8 ngày để giải quyết rác hỗn hợp. Trong khi đó nếu để ở môi trường tự nhiên, các loại rác trên phải mất 280 ngày mới có thể phân hủy. Điểm đặc biệt của phương pháp nầy là không gây mùi hôi và không tạo nguồn chất thải; đồng thời sau khi xử lư, thể tích rác sẽ giảm 90% so với ban đầu. Ngoài ra, cứ một tấn rác từ phương pháp xử lư trên c̣n cho thu 200 Kg nhộng, một loại thức ăn rất giàu dinh dưởng cho gia cầm và cá. Để có một khái niệm về sự phân hủy rác tại một băi rác ở Los Angeles, nơi đây mới vừa xảy ra một tai nạn sụp lỡ do ống chuyển vận nước rỉ (leachate) của rác bị bể. Rác được đào xới lên từ độ sâu hơn 100 m và đă trú ngụ trong ḷng đất hơn 20 năm. Khi được đào lên, t́nh trạng phân hủy của rác vẫn c̣n đang tiếp diễn và lượng khí methane vẫn tiếp tục được thải hồi với nồng độ trên 100 mg/L trong lúc đó nhiệt độ của rác vần c̣n ở khoăng 100 C. Người viết không thể tự giải thích được tại sao ở Việt Nam chỉ cần 280 ngày rác sẽ bị phân hủy ḥan ṭan như lời của TS Việt?

 

Suy luận từ các kết quả trên và nhận thấy vấn đề rất quan trọng ảnh hưởng lớn đến môi sinh và sức khỏe người dân, thiết nghĩ cần phải làm sáng tỏ thêm biện pháp xử lư nầy. Trước hết cần phải minh định việc phân loại rác cho rơ ràng: rác sinh hoạt, phế phẩm từ quá tŕnh chế biến thực phẩm hay gia súc, và rác hỗn hợp. Trong suốt thời gian sống ở Việt Nam trước và sau 1975, cũng như sau hai tuần lễ về lại Sàig̣n gần đây, xin tạm phân loại theo “mắt thấy và kư ức về các loại rác như sau:

 

Rác sinh hoạt là loại rác phế thải từ mọi sinh hoạt trong nhà, trọng tâm là các thức ăn uống dư thừa (trước 1975), và các loại rác từ cây, trái, củ...  trong quá tŕnh nấu nướng. Cần phải kể thêm các bao, b́ giấy, nylon và...các đồ phế thải cần vất bỏ. Phế phẩm từ quá tŕnh chế biến thực phẩm có thể được hiểiu là rác đến từ các nhà máy chế biến trái cây, thịt hộp, cá hộp v.v... Rác hỗn hợp. Xin chịu! Không thể h́nh dung được thành phần cấu tạo của rác nầy.

 

Ngoài những thông số đă nêu ra, TS Việt c̣n cho biết nhộng của ruồi lính đen là một thức ăn giàu dinh dưởng cho gia cầm và cá. Bài viết nầy xin góp ư về tính cách khả thi và t́nh trạng thực tế trong việc áp dụng phương pháp xử lư rác mới nầy.

 

Mặc dù không có kiến thức về côn trùng học nhưng qua sự t́m hiểu, người viết nhận thấy hai vấn đề căn bản cần phải thảo luận nơi đây là: xử lư rác dưới dạng nào, và việc xử dụng nhộng làm thức ăn cho gia cầm.

 

Trước hết, ở các quốc gia phát triển, việc  dùng ruồi để xử lư phân chuồng (manure) như phân gia cầm và nhất là phân ḅ được thực hiện rất hạn chế và ở những khu ít dân cư ngụ. Họ đă dùng Ruồi nhà (House fly - Musca domestica), Ruồi chuồng ngựa ( Stable fly - Stomoxys calcitrans) , Ruồi rác đen (Black garbage fly - Ophyra aenescens), Ruồi lính đen, và Ruồi lằng hay Nhặng (Rat-tailed maggot - Eristallis tenax). Bằng phương pháp nầy Sheppard (Environ.Entomol. 12:1439 - 1442, 1983) đă giăm thiểu được 50% thể tích của phân chuồng sau khi xử lư. Nên nhớ phân chuồng là một hợp chất hữu cơ thuần nhất, không chứa các tạp chất như bao, b́ hay nylon, vơ cây v. v...và là thức ăn thuần túy cho ấu trùng. Phương pháp cũng đ̣i hỏi một quy tŕnh xử lư rất quy mô và nhộng sẽ bị giết chết bằng thuốc sát trùng Larvadex trước khi lột xác thành ruồi. Trong việc xử lư phân ḅ được nuôi để lấy sữa, các nhà máy xử lư phải đặt cách xa các trung tâm sản xuất và lưu trử sữa v́ ruồi có thể mang mầm bịnh như: bovine virus diarrhea (BVD), infectiuos bovine rhinitis (IBR), para influenza serotype 3 (PI 3) và trên 65 mầm bịnh cho người và súc vật. Do đó, dùng ruồi lính đen để giải quyết 90% rác sinh hoạt quả là một việc làm không tưởng!

 

Thêm nữa, việc xử dụng nhộng để làm thức ăn cho gia cầm và cá có thể là một vấn nạn lớn nếu đem vào áp dụng. Làm thế nào kiểm soát vấn đề “vệ sinh pḥng dịch” khi con người tiêu thụ các gia cầm được nuôi bằng phương pháp trên? Và làm thế nào để giữ nhộng dưới dạng nhộng trước khi biến thành ruồi? Nếu không dân thành phố Hồ Chí Minh sẽ không c̣n thấy mặt trời một khi số lượng gia cầm không tiêu thụ hết lượng nhộng sinh sản ra qua quá tŕnh xử lư, và đạo quân ruồi lính đen sẽ vây kín bầu trời của thành phố!

 

TS Việt đă làm một bước cố gắng là động nảo để t́m một phương cách giải quyết vấn đề rác ở Việt Nam. Đó là một điều rất đáng khích lệ trong chiều hướng làm cho môi trường Việt Nam sạch hơn so với hiện tại. Tuy nhiên, nếu bằng mọi giá để đưa ra những thông số kỹ thuật không hợp lư và không thực tế, để quy về một thành tựu tưởng tượng, kết quả của một vài thí nghiệm đặc biệt, để rồi sau cùng cổ vơ cho một sáng kiến mới, điều nầy là một việc không nên làm. Xin hỏi 14 Kg rác sinh hoạt là rác ǵ (?) mà ấu trùng có thể sơi tái hết 90% trong ṿng 14 giờ ? Nếu đây là một thực tế xin đan cử băi rác Đông Thạnh làm thí dụ.

 

Băi rác Đông Thạnh là một băi rác chứa tất cả phế thải sinh hoạt của hơn 5 triệu cư dân thành phố Sàig̣n và có diện tích rộng hàng chục mẫu tây. Nếu đem áp dụng phương pháp của TS Việt th́ chỉ cần 14 giờ...hay trễ lắm là 7 - 8 ngày ta có thể giải quyết được 90% của hàng triệu tấn rác. Chúng ta sẽ không cần đến nhà máy xử lư nước rĩ ra từ rác. Sẽ không c̣n sự cố bể bờ ở băi rác như tai nạn đă xảy ra vào tháng sáu và tháng bảy năm 2000. Sẽ không c̣n t́nh trạng cư dân vùng Hốc Môn ngăn chặn không cho hàng ngàn xe chở rác tiến về băi rác làm ứ động đường xa và làm ô nhiễm một vùng trời trong tháng 3/2001. Và sau cùng quốc gia sẽ có một nguồn ngoại tệ vĩ đại, nguồn lợi mang đến từ việc xuất khẩu gia súc dư thừa do kết quả của việc tăng gia chăn nuôi nhờ vào nguồn thức ăn giàu protein là nhộng (của ruố).

 

Những nhận xét trên đây đă chứng minh một cách rơ ràng là chương tŕnh xử lư rác sinh hoạt bằng ruồi lính đen khó có thể thực hiện được v́ không thực tế và không có căn bản khoa học  vững chắc. Do đó đề nghị TS Việt nên tạm dừng nơi đây và có thể xoay hướng nghiên cứu về việc xử lư phân chuồng bằng ruồi (chứ không bắt buộc phải là ruồi lính đen). Các phế phẩm sau khi xử lư có thể được xử dụng làm phân hữu cơ. Làm như thế cũng đă là một bước tiến dài trong việc làm sạch môi trường và phát triển quốc gia.

 

 

Cây thuốc cá: Đây cũng là một trong những phát minh “sáng kiến khoa học đứng trước nguy cơ xuất cảng tôm v́ hàm lượng thuốc kháng sinh chloramphenicol quá cao trong tôm gay trở ngại cho việc xuất cảng. Cây thuốc cá có tên khoa học là Derris Elliptica Benth chứa hoạt chất rotenone.       Công thức hóa học của rotenone là C23 H22 O6 . Đây là một loại thuốc sát trùng mạnh và độc hại cho con người, đă được EPA xếp vào loại hóa chất gây mầm bịnh ung thư (carcinogen). Khả năng gây 50% tử vong cho chuột (LD 50 - Lethal dose 50%) là 132mg/Kg. Mức an toàn trong không khí là 5mg/m3 (TLV - Threshold Limit Volume). Khi bị nhiểm cấp tính qua đường hô hấp hay ăn phải thức ăn đă bị nhiểm độc, con người có thể bị ói mửa, mất cảm giác (numbness), đường hô hấp có thể ngưng hoạt động tùy theo cường độ của hóa chất xâm nhập vào cơ thể. Nhưng nếu bị nhiễm lâu dài có thể gan và thận bị ung thư. (Dangerous Properties of Industrial Materials, Irving Sax, 1984).

 

Sở dĩ cây có tên là cây thuốc cá v́ khi thả loại cây nầy xuống ao hồ, cá sẽ bị nổ mắt mà chết nhất là những loại cá thở bằng mang. Do đó nông dân Việt Nam dùng rễ cây để đi bắt cá. Theo tin thời sự gần đây nhất, người Mỹ đang có dự định dùng hóa chất nầy để trừ khử loại cá Đầu Rắn (snakehead fish) đă xâm nhập vào các hồ ở miền Đông Hoa kỳ. Cây chịu đựng được hạn hán, dễ trồng trên mọi loại đất. Viện Sinh học Nhiệt đới tp HCM đă chiết xuất cây thuốc cá để làm thuốc trừ sâu và trừ gián, muỗi..

 

Từ khoăng năm 200 trở đi, nhiều gia đ́nh nông dân nông dân ở vùng Dầu Tiếng (Tây Ninh) trở nên giàu có nhờ trồng cây Thuốc Cá trên. Lư do là rễ cây nầy trở thành một nguồn lợi rất cao so với việc trồng lúa, khoai ḿ hay các nông sản khác. Một Kg rễ cây trên thị trường hiện nay có giá từ 17 đến 26.000 đồng (giá thị trường 7/2002). Một mẫu đất có thể thu hoạch dễ dàng 2 tấn rễ, không kể các thân cây được cắt thành khúc và đem bán như cây giống. 

 

Đây là một phong trào lớn mạnh hiện tại. Nhà nhà thi nhau trồng cây Thuốc Cá v́ nông dân không đủ cung ứng cho thị trường miền Tây.

 

Lư do?

 

1-         Những nhà nuôi tôm sú hiện nay đang xử dụng rễ cây nầy như một loại kích thích tăng trưởng cho tôm. Tôm ăn phải hóa chất sẽ được thay vỏ sớm hơn định kỳ, do đó tăng trưởng nhanh hơn.

2-         Một lư do khác mà người viết chưa dám cả quyết là hóa chất trện c̣n có thể được xử dụng như một loại thuốc diệt khuẩn để thay thế kháng sinh chloramphenicol mà thị trường Hoa Kỳ và Liên Hiệp Aâu Châu đă cấm đoán sự hiện diện của chất sau nầy trong tôm xuất cảng.

 

Cho dù một trong hai lư do trên là nguyên nhân của việc xử dụng cây Thuốc Cá trong kỹ nghệ nuôi tôm, thiết nghĩ cần phải lưu ư vấn đề trên v́ nó có thể ảnh hưởng trực tiếp đến: 1) người trồng tỉa, 2) người chăn nuôi tôm, và 3) người tiêu thụ.

 

Rotenone là một hóa chất không nằm trong danh mục phân tích các chất độc hại của EPA; tuy nhiên hóa chất rotenone được phân tích theo phương pháp EPA 8325 bằng HPLC/PB/MS (High Performance Liquid Chromatography/Particle Beam/Mass Spectrometry). Người viết đă thăm ḍ trên 10 Pḥng thí nghiệm phân tích lớn (trên 100 chemists) ở tiểu bang California, nhưng không có nơi nào có khả năng phân tích hóa chất trên. Cũng qua điều tra, chỉ có pḥng thí nghiệm của EPA (Triangle Park) có các dụng cụ phân tích kễ trên. C̣n đối với FDA, chỉ có yêu cầu đặc biệt, cơ quan nầy mới tiến hành thủ tục phân tích trên thực phẩm.

 

Mục đích của bài viết nầy là để nêu lên những thông tin liên quan đến ảnh hưởng sức khỏe của người tiêu thụ khi xử dụng những sản phẩm tương tự. Tuy nhiên, các cuộc điều tra tiếp theo cũng rất cần thiết để soi sáng vấn đề đang c̣n nóng bỏng trên.

 

Luận án tốt nghiệp: Thí dụ điển h́nh sau cùng là trao đổi giữa người viết và một sinh viên đang sữa soạn luận án tốt nghiệp tại trường Cao đẳng Hóa học Phú thọ Sàig̣n. Không biết v́ lư do ǵ sinh viên Vơ Trần N.A.biết được địa chỉ điện thư của người viết và có thư yêu cầu được cung cấp tài liệu về phương pháp cũng như các thông số kỹ thuật để thiết lập dự án cho nhà máy xử lư nước thải của công ty Vissan (ḷ sát sinh cũ ). Trong thư, N.A. c̣n có một yêu cầu đặc biệt là làm thế nào để xử lư và biến nước thải thành nước súp cho con người! (Xin được nói rơ là công ty Vissan đă bị biên bản đóng cửa từ năm 1997 do lệnh của Uỷ Ban Nhân dân Thành phố  nhưng vẫn liên tục hoạt động cho đền ngày nay mặc dù  vẫn không giải quyết hệ thống xử lư nước thải).

 

            Người viết đă cố gắng thỏa măn các yêu cầu của sinh viên trên; tuy nhiên, đối với yêu cầu đặc biệt người viết đă trả lời gần như van xin sinh viên N.A. đừng nghĩ đến v́ đó là một điều ḥan ṭan phản khoa học và không tưởng! Phải mất nhiều ngày, người viết mới vơi đi nỗi bàng hoàng trước những suy nghĩ sáng tạo của các nhà làm khoa học trong nước đă mớm cho sinh viên nầy tận dụng nguồn phế thải không thể thu hồi lại được như nước thải của công ty Vissan. Nơi đây thể hiện một chính sách giáo dục trong đó sự hướng dẫn và gợi ư cho người làm khoa học cố gắng động năo để nghĩ ra những đề án táo bạo đầy sáng tạo.. . nhưng cuối cùng vẫn là những đề án không thể thực hiện được hay thực hiện nữa vời không bao giờ có được thành quả như đă được đề ra.

 

            Qua bốn thí dụ điển h́nh ở giai đọan ổn định để phát triển quốc gia, hy vọng độc giả sẽ tự rút tỉa để đưa ra một kết luận riêng cho từng người. Người viết xin tự chế và không phát biểu cảm nghĩ của ḿnh cho bài viết Phát huy Sáng kiến Kỹ thuật trong Phát triển nầy.

 

Mai Thanh Truyết     

Xuân Giáp Thân 2004