Chất Da Cam (Agent Orange) và Bệnh Hổng Xương Sống (Spina Bifida)

Michael Gough

Lời người dịch: Đây là chủ đề của bài điều trần của Tiến sĩ Michael Gough trước Ủy ban Cựu chiến binh của Thượng Viện Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 9 năm 1996.  Lúc bấy giờ, Ông là Giám đốc Nghiên cứu Khoa học và Nguy cơ của Viện Cato ở Washington DC.  Ông từng là một thành viên trong Hội đồng Cố vấn Khoa học của Cơ quan Bảo vệ Môi sinh Hoa Kỳ (EPA) phụ trách việc duyệt xét phúc tŕnh Thẩm định Nguy cơ của Dioxin 1994 (1994 Dioxin Risk Assessment).  Hiện nay, Ông là một chuyên viên cố vấn về nguy cơ, luật lệ, phương pháp khoa học, thẩm định nguy cơ, kỹ thuật sinh học, môi trường, phân tích nguy cơ môi trường, ô nhiễm, chất da cam, và dioxin.  Ông là tác giả của quyển sách Dioxin, Agent Orange xuất bản năm 1986. 

Nguyễn Minh Quang - 07/2004

Xin cảm ơn Chủ tịch Simpson và các thành viên của Ủy ban đă dành cho tôi một cơ hội để thảo luận về nhận định sai lầm trong việc liên kết gợi ư (suggestive link) giữa việc tiếp xúc với chất Da cam của cha với bệnh hổng xương sống (spina bifida) của con cái.  Tôi sẽ thảo luận ba điểm: thứ nhứt là Nghiên cứu Ranch Hand của Không lực Hoa Kỳ (Air Force’s Ranch Hand Study) [1], thứ hai là tiến tŕnh mà Viện Y khoa (Institute of Medicine (IOM)) dùng để đi đến kết luận về chất Da cam và bệnh hổng xương sống [2], và thứ ba là một phân tích để minh chứng rằng kết luận của IOM là sai (incorrect).

IOM đă cứu xét bằng chứng về những liên kết có thể có (possible links) giữa việc tiếp xúc với chất Da cam của cha và dị thai (birth defects) trong hai phúc tŕnh 1993 [3] và 1996.  Trong năm 1993, phúc tŕnh cho rằng không có sự liên kết, và, như tất cả chúng ta đă biết, trong năm 1996, phúc tŕnh kết luận rằng đă có “bằng chứng giới hạn/gợi ư của một sự liên hệ (association) giữa việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ (herbicides) được dùng ở Việt Nam và bệnh hổng xương sống của con cái” (IOM 1996, trang 1-8).  Nguyên nhân của sự thay đổi phát xuất từ tin tức trong Nghiên cứu Ranch Hand (IOM 1996, trang 9-8).

Trước khi thảo luận về Nghiên cứu Ranch Hand, tôi xin thưa rằng chưa có một cơ chế sinh học nào cho thấy việc tiếp xúc với chất Da cam của cha mẹ có thể gây dị thai [4].  2,4-D hay 2,4,5-T, hai loại thuốc diệt cỏ cấu thành của chất Da cam [5], hay dioxin [6] không phải là một tác nhân làm thay đổi tính di truyền (mutagen), và chúng cũng không thể thay đổi DNA trong tế bào tinh trùng (sperm cell).  Cả hai chất 2,4-D và 2,4,5-T bị loại ra khỏi cơ thể trong ṿng vài tuần lễ, do đó, các hóa chất nầy không thể hiện diện trong cơ thể của người cha khi con cái được thụ thai sau khi phục vụ tại Việt Nam.  Trái lại, dioxin tồn tại rất dai dẳng trong cơ thể, và nó hiện diện trong tất cả chúng ta.  V́ dioxin không thể thay đổi DNA, phương pháp duy nhứt để dioxin trong cơ thể của người cha có thể gây dị thai khi nó được truyền sang người mẹ qua tinh dịch (semen).  Một vài phân tử dioxin được truyền qua sẽ nhập vào hàng tỉ phân tử trong cơ thể của người mẹ.  Làm cách nào số lượng nhỏ nhoi đó có thể gây tác hại?  Không cách nào.

Nghiên cứu của Không lực Hoa Kỳ so sánh kết quả sinh sản của nhóm Ranch Hand, những người đàn ông có tiếp xúc với thuốc diệt cỏ, với kết quả sinh sản của nhóm So Sánh chưa hề tiếp xúc với thuốc diệt cỏ.  Không có một lư do tiên khởi (a priori reason) để nghĩ rằng chất Da cam có liên hệ với bất cứ một dạng dị thai nào, và các khoa học gia của Không lực đă quăng một mẻ lưới to.  Họ so sánh tổng số trường hợp dị thai của nhóm Rach Hand và So Sánh, và họ so sánh sự xảy ra (occurence) và tỉ lệ (frequency) của từng trường hợp dị thai cá biệt được phát hiện trong con cái của nhóm Ranch Hand, nhóm So Sánh, hoặc cả hai.

Chúng ta mong đợi ǵ nếu việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ hoàn toàn không có ảnh hưởng đến dị thai?  Có phải chúng ta mong đợi những dạng dị thai hoàn toàn giống nhau trong cả hai dân số có và không có tiếp xúc?  Hay những con số hoàn toàn giống nhau?  Dĩ nhiên là không, v́ trên phương diện xác suất, chúng ta thấy rằng vài trường hợp dị thai sẽ thường gặp hơn trong nhóm có tiếp xúc và vài trường hợp khác sẽ thường gặp hơn trong nhóm không tiếp xúc, nhưng số trường hợp dị thai trong con cái của nhóm Ranch Hand và So Sánh sẽ gần bằng nhau.

Ngược lại, chúng ta mong đợi ǵ nếu việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ làm tăng dị thai?  Nếu, v́ một vài cơ chế sinh học ẩn tàng, thuốc diệt cỏ làm gia tăng tỉ lệ của tất cả trường hợp dị thai, chúng ta phải thấy số trường hợp dị thai trong con cái của nhóm Ranch Hand gia tăng một cách đáng kể.  Nếu nó làm gia tăng tỉ lệ của một dạng dị thai nào đó, chúng ta sẽ thấy dạng dị thai đó thường gặp hơn rất nhiều trong con cái của nhóm Ranch Hand.

Kết quả của Nghiên cứu Ranch Hand cho thấy, trên phương diện thống kê, không có một sự khác biệt đáng kể nào giữa tỉ lệ dị thai trong nhóm Ranch Hand và So Sánh.  Tỉ lệ dị thai của trẻ sơ sinh là 0.21 cho nhóm So Sánh và 0.22 cho nhóm Ranch Hand.  Khi so sánh tỉ lệ dị thai của các bộ phận cơ thể khác nhau, có 4 bộ phận thường gặp hơn trong con cái của nhóm So Sánh, và có 6 bộ phận thường gặp hơn trong con cái của nhóm Ranch Hand.  Không có một sự khác biệt nào là đáng kể trên phương diện thống kê.  Sự phân phối dị thai nầy là điều chúng ta mong đợi nếu việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ không có ảnh hưởng đối với dị thai.

Hai trường hợp cá biệt bất thường (specific anomalies) và hai trường hợp khuyết tật phát triển (developmental disabilities) th́ rất phổ biến để có thể phân tích thống kê dựa trên việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ của người cha.  Tỉ lệ của hai trường hợp cá biệt bất thường - dị thai chính (major birth defects) và dị thai kép (multiple birth defects) th́ tương đương trong con cái của nhóm Ranch Hand và So Sánh.

Để khảo sát ảnh hưởng có thể có khi gia tăng tiếp xúc với thuốc diệt cỏ, nhóm Ranch Hand được chia làm 3 nhóm nhỏ - (1) mức độ tiếp xúc không vượt quá mức căn bản (background levels), (2) mức độ tiếp xúc thấp, và (3) mức độ tiếp xúc cao.  Nếu thuốc diệt cỏ gây dị thai, chúng ta phải thấy tỉ lệ dị thai gia tăng với mức độ tiếp xúc.  Đây không phải là điều được t́m thấy.  Thay vào đó, dị thai chính và dị thai kép thường gặp trong con cái của nhóm có mức độ tiếp xúc thấp.  Không có cách để giải thích kết quả nầy có liên quan đến việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ.  Nếu việc gia tăng mức độ tiếp xúc gây nên các trường hợp dị thai nầy, dị thai phải thường thấy trong con cái của nhóm có mức độ tiếp xúc cao.  Giải đáp hợp lư nhất là thuốc diệt cỏ không có ảnh hưởng và sự phân bố các trường hợp dị thai trong con cái của người có mức độ tiếp xúc dưới mức căn bản, thấp, và cao chỉ là một việc ngẫu nhiên (matter of chance).

Tương tự, việc khảo sát các trường hợp khuyết tật phát triển thường gặp nhất trong các phân tích thống kê cho phép đi đến kết luận là không có một mối liên hệ nào giữa việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ và tỉ lệ dị thai [7].  Hội chứng kích động (hyperkinetic syndrome) rất phổ biến trong con cái của nhóm có mức độ tiếp xúc dưới mức căn bản.  Chậm phát triển (delayed development) trong con cái của nhóm có mức độ tiếp xúc dưới mức căn bản th́ phổ biến hơn là nhóm có mức độ tiếp xúc cao.

Thay v́ chạy theo sự khác biệt tỉ lệ nhỏ nhặt của các trường hợp cá biệt bất thường hay khuyết tật phát triển, chúng ta sẽ có lư hơn nếu nói rằng không có một sự liên hệ giữa việc tiếp xúc với các trường hợp vừa nêu.  Nhưng tiếc thay, IOM diễn dịch dữ kiện dựa theo sự khác biệt tỉ lệ.

Nghiên cứu Ranch Hand cho thấy rằng các con số của 14 trường hợp cá biệt bất thường hay khuyết tật phát triển trong con cái của nhóm So Sánh hoặc Ranch Hand hoặc cả hai th́ “số đếm và mức độ... [th́] quá rải rác để phân tích...” (Wolfe et al. 1995, trang 20).

Hai trường hợp hệ thần kinh bất thường (neural tube anomalies) – 1 ca về hoại óc (anencephaly) và 3 ca về hổng xương sống – chỉ xảy ra trong con cái của nhóm Ranch Hand.  Thêm vào đó, hai trường hợp dị thai khác – 1 ca về ngón thừa (polydactyly) và 1 ca về teo tứ chi (reduced limb deformity) - chỉ xảy ra trong con cái của nhóm Ranch Hand.

Trong quá khứ, hàm ếch (cleft palate) và sứt môi/hàm ếch (cleft lip/palate) thường được xem như có thể có liên hệ với dioxin v́ tỉ lệ hàm ếch của chuột con gia tăng nếu chuột mẹ tiếp xúc với dioxin [8].  Thế nhưng, không có bằng chứng nào cho thấy việc tiếp xúc với chất Da cam của chuột đực có ảnh hưởng đến con cái của chúng [9].  Một điều thú vị là hàm ếch và sứt môi/hàm ếch chỉ xảy ra cho con cái của nhóm So Sánh trong nghiên cứu Ranch Hand.  Ngoài chuyện hàm ếch chỉ xảy ra trong con cái của nhóm So Sánh, một ca đọng nước trong năo (hydrocephalus) duy nhất được t́m thấy trong một đứa con của nhóm So Sánh.

Dựa trên sự phân bố trường hợp dị thai giữa nhóm So Sánh và nhóm Ranch Hand, thật là hợp lư để đề nghị rằng việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ ngăn ngừa bệnh hàm ếch và đọng nước trong năo bởi v́ IOM đă kết luận rằng kết quả về bệnh hổng xương sống là gợi ư của một sự liên hệ.

Không một ai - kể cả các tác giả trong nghiên cứu Ranch Hand, ủy ban của Bộ Y tế Xă hội phụ trách duyệt xét kết quả nghiên cứu trước khi công bố [10], người duyệt bài và chủ bút của tạp chí Epidemiology đă đăng tải nghiên cứu Không lực, và một khoa học gia phê b́nh nghiên cứu Không lực cho Epidemiology [11] - đi đến kết luận rằng sự phân bố và tỉ lệ dị thai đă cung cấp bất cứ một bằng chứng cho thấy sự nối kết (connection) giữa việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ và dị thai.

Tại sao IOM đi đến kết luận là bằng chứng th́ “giới hạn/gợi ư”?  IOM ấn định cách xếp hạng đó khi

Bằng chứng th́ gợi ư cho một sự liên hệ giữa thuốc diệt cỏ với kết quả, nhưng giới hạn v́ sự ngẫu nhiên (chance), thiên vị (bias), và sự xáo trộn (confounding) không thể hoàn toàn được loại bỏ.  Thí dụ, có một nghiên cứu có chất lượng cao cho thấy sự liên hệ, nhưng kết quả của các nghiên cứu khác th́ không đồng nhất. [12]

IOM đă hạ thấp vai tṛ của sự ngẫu nhiên và xáo trộn trong việc lượng định.  Chắc chắn, sự ngẫu nhiên có thể giải thích sự hiện diện của bệnh hổng xương sống trong con cái của nhóm Ranch Hand, giống như nó có thể dùng để giải thích sự khiếm diện của bệnh hàm ếch trong cùng một mẩu dân số.

“Các tác nhân gây xáo trộn” (confounders), có thể là những yếu tố góp phần vào sự liên hệ biểu kiến giữa việc tiếp xúc và ảnh hưởng, phải luôn luôn được cứu xét trong các nghiên cứu dịch tễ học nghiêm túc.  Có những yếu tố khác có thể liên hệ với bệnh hổng xương sống trong nghiên cứu Ranch Hand hay không?  Mặc dù chúng ta chưa biết nguyên nhân hay phương pháp ngăn ngừa phần lớn các trường hợp dị thai, có bằng chứng thuyết phục cho thấy sản phụ có mức acid folic thấp trong dinh dưỡng có nguy cơ sinh con mang bệnh hổng xương sống và hoại óc cao hơn.  Thật vậy, Sở Dị thai và Phát triển của Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật (Centers for Disease Control) ước tính rằng 60% các trường hợp dị thai có thể ngăn ngừa nếu dinh dưỡng của sản phụ có lượng folic acid thích hợp [13].  Có thể nào cái tác nhân gây xáo trộn nầy cũng như sự ngẫu nhiên có can dự vào sự phân bố bệnh hổng xương sống trong nghiên cứu Ranch Hand?  Dĩ nhiên là có.  Tôi nghĩ rằng IOM đă không lưu ư đúng mức đến sự ngẫu nhiên và xáo trộn trong việc phân tích.

Phần thứ hai trong tiêu chuẩn của IOM quả thật là một vấn đề.  Việc chú trọng vào kết quả của “một nghiên cứu có chất lượng cao” đă xem thường tính khoa học khách quan, đ̣i hỏi tất cả các dữ kiện phải được cứu xét và cân nhắc cùng với nhau.  Thật vậy, IOM cố t́nh không cứu xét bất cứ dữ kiện nào không hổ trợ cho một sự liên hệ, bởi v́ nó cho phép các chuyên viên phân tích tập trung vào một kết quả cô lập duy nhất để minh chứng cho trường hợp của họ.  Những mối liên hệ có thể được phát hiện qua sự ngẫu nhiên hoặc do thiên vị hay xáo trộn trong các nghiên cứu hoàn hảo nhất, và tiêu chuẩn nầy đă đặt một sức nặng quá tải lên chúng.  Tiêu chuẩn nầy là khoa học tồi (bad science).  IOM không chịu áp lực của Quốc hội như có lúc được đồn đại.  IOM tự đặt tiêu chuẩn cho chính ḿnh.

IOM không cứu xét một cách nghiêm chỉnh các bằng chứng phản bác sự nối kết giữa việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ và dị thaiIOM không vật lộn với vấn đề không có một mô h́nh sinh học nào cho thấy các ảnh hưởng đó có thể xảy ra.  IOM bỏ qua các thí nghiệm trên thú vật hổ trợ ư kiến cho rằng các ảnh hưởng đó không xảy ra.  IOM tuyên bố (IOM 1996, trang 9-18) rằng “Nghiên cứu trong pḥng thí nghiệm về khả năng phát triển độc tính... của TCDD sau khi cho thú vật đực trưởng thành (adult male animals) tiếp xúc th́ rất giới hạn để có thể đi đến kết luận.” Phần tóm tắt nầy bỏ qua nghiên cứu của Lamb et al. cho thấy chuột đực được nuôi với chất Da cam không gây dị thai cho dù chúng bị ảnh hưởng do độc tố của chất Da cam.

IOM cũng xếp qua một bên nghiên cứu trên 15.291 trường hợp sinh sản của cư dân ở Seveso, Ư.  Seveso là nơi mà một tai nạn đă xảy ra ở một nhà máy hóa chất trong năm 1976, phóng thích dioxin và một số hóa chất khác trong một vùng có dân số 37.000 người.  Năm 1988, một nhóm bác sĩ Ư công bố một bài viết so sánh tỉ lệ và các dạng dị thai trong trẻ con sinh trong vùng Seveso với trẻ con sinh trong vùng phụ cận không bị ô nhiễm trong khoảng thời gian 6 năm sau khi tai nạn xảy ra. [14]

Dữ kiện ở Seveso mâu thuẫn với sự diễn dịch của IOM về nghiên cứu Không lực.  Không lực báo cáo 5 trường hợp rối loạn hệ thống thần kinh trong con cái của nhóm Ranch Hand và 3 trong con cái của nhóm So Sánh.  Nếu có một sự liên hệ giữa việc tiếp xúc với dioxin và sự rối loạn hệ thống thần kinh, các trường hợp dị thai nầy phải cao hơn trong con cái của cha mẹ có tiếp xúc với dioxin ở Seveso.  Có 2 trường hợp trong số 2.900 trẻ có cha mẹ tiếp xúc với dioxin và 22 trường hợp trong số 12.391 trẻ có cha mẹ không bị ô nhiễm.  Tỉ lệ của các trường hợp dị thai nầy là 0.07% cho nhóm bị ô nhiễm và 0.17% cho nhóm không bị ô nhiễm [15], hay 2.5 lần cao hơn cho nhóm không bị ô nhiễm.  Dữ kiện ở Seveso không hổ trợ cho lập luận cho rằng việc tiếp xúc với dioxin gây khuyết tật cho hệ thống thần kinh trung ương.

Việc tiếp xúc với dioxin ở Seveso th́ cao hơn so với nhóm Ranch Hand (xem Bảng 1), ở Seveso có nhiều người tiếp xúc với dioxin hơn, và quan trọng nhất là, cả đàn ông và đàn bà đều tiếp xúc với dioxin.  Bảng 2 tŕnh bày kết quả tính toán số trường hợp bệnh hổng xương sống trong dân số Seveso dựa theo kết luận của IOM về sự liên hệ giữa bệnh hổng xương sống và dioxin.  Sự vắng mặt của bệnh hổng xương sống trong dân số sống trong các vùng bị ô nhiễm ở Seveso (Vùng A, B, và R) mâu thuẫn với kết luận của IOM.  Tổng quát hơn, việc tiếp xúc với dioxin ở mức độ cao của đàn ông và đàn bà ở Seveso đă không làm gia tăng tỉ lệ của bất cứ một dạng hay của tất cả các dạng dị thai cho thấy rằng dioxin chưa gây ra dị thai.

Kết luận

Chưa có một cơ chế sinh học nào có thể giải thích v́ sao việc tiếp xúc với dioxin của đàn ông có thể gây dị thai cho con cái của họ.  Kết quả thí nghiệm trên thú vật - cho thấy việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ của chuột đực không làm tăng tỉ lệ dị thai trong con cái của chúng - đă hổ trợ cho lập luận đó.  Ngoại trừ một nghiên cứu, tất cả các nghiên cứu dịch tễ học mà IOM đă dùng để hổ trợ cho kết luận của ḿnh về một sự liên hệ “giới hạn/gợi ư” giữa dioxin và bệnh hổng xương sống đă không có một tin tức có thể kiểm chứng được về việc tiếp xúc [16].  Cùng lắm, nghiên cứu Ranch Hand có thể được diễn dịch như là không cho thấy một sự nối kết giữa việc tiếp xúc với dioxin của cha mẹ với các trường hợp dị thaiSự vắng mặt của bệnh hổng xương sống trong dân số Seveso có mức tiếp xúc với dioxin và mật độ sinh sản cao hơn nghiên cứu Ranch Hand là một tương phản trực tiếp với kết luận của IOM.

Quốc hội muốn có một lượng định khoa học từ IOM.  Ủy ban IOM đă không hành xử như những nhà khoa học; Ủy ban đă quan trọng hóa kết quả của một nghiên cứu duy nhất, bỏ qua các bằng chứng tương phản, và đưa ra một lượng định sai trái.  Tôi tin rằng hoạch định chánh sách dựa trên khoa học “dỏm” (flawed science) là sai và bất công (wrong and unfair).

      

Tham khảo

[1]      Wolfe, W.H. Michalek, J.C. Miner, et al. 1995.  Epidemiology 6:17-22.

[2]          Institute of Medicine. 1996.  Veterans and Agent Orange: Update 1996. National Academy Press: Washington, DC.

[3]          Institute of Medicine. 1993.  Veterans and Agent Orange. National Academy Press: Washington, DC.

[4]          Institute of Medicine. 1993.  At pp. 593-595.

[5]          Mortelmans, K., S. Haworth, W. Peck, et al. 1984.  Toxicology and Applied Pharmacology 75: 137-146.

[6]          Environmental Protection Agency. 1994. Health Assessment Document for 2,3,7,8-Tetrachlorodibenzo-p-Dioxin (TCDD) and Related Compounds.  USEPA: Washington, DC. [EPA/600/BP-92-001a] Volume I of III at pp. 6-12 to 6-14.

[7]      There were 71 cases of delayed development in the children of both the Comparisons and 30 cases in the children of Ranch Hands.

[8]          Courtney, K.D. and J.A. Moore. 1971. Toxicology and Applied Pharmacology 20: 396-403.

[9]      Lamb, J.C., J.A. Moore, and T.A. Marks. 1980.  Evaluation of 2,4-dichlorophenoxyacetic acid (2,4-D) and 2,4,5-trichlorophenoxyacetic acid (2,4,5-T), and 2,3,7,8-tetrachlorodiebnzo-p-dioxin (TCDD) toxicity in C57BL-6 mice; Reproduction and fertility in treated male mice and evaluation of congenital malformations in their offspring.  National Toxicology Program: Research Triangle Park, NC. [NTP-80-44].

[10]    I chaired that committee when it reviewed the Air Force birth defects study.

[11]          Lindbohmm M.L. 1995.  Epidemiology 6:4-6.

[12]          Institute of Medicine. 1993.  At p. 6.

[13]          Oakley, G.P., Jr. 1993. Journal of the American Medical Association 269: 1292-1293.

[14]          Mastroiacovo, P., A. Spagnolo, M. Ernesto, et al. 1988.  Journal of the American Medical Association 259: 1668-1672.

[15]    I included “neural tube defect,” “microencephaly,” and “other CNS defects” from Mastroiacovo et al. in this tabulation.

[16]          Centers for Diesease Control. 1988. Journal of the American Medical Association 260: 1249-1254.


Bảng 1

Nồng độ Dioxin trong nhóm Ranch Hand và cư dân Seveso

Ranch Hand, nồng độ tính toán ban đầu.b

Phân loại

Nồng độ của cha mẹ (ppt)

Na

trung b́nh

75%

tối đa

 

 

 

 

 

căn bản

283

---

---

<10

tiếp xúc thấp

241

60

---

109

tiếp xúc cao

268

294

---

2020

Cư dân Seveso, nồng độ đo được ngay sau khi tiếp xúc

Phân loại

Nồng độ của cha mẹ (ppt)

Na

trung b́nh

75%

tối đa

 

 

 

 

 

Vùng A

198c

(tính) 500d

(tính) 2000d

56,000e

Vùng B

435f

(tính) 125d

---

---

Vùng R

2439f

(tính) 60g

---

---

__________

a. Number of children born to parents in the indicated classification.

b. Joel Michalek, principal investigator, Air Force Ranch Hand study, email Aug. 28, 1996.

c. Number of births through December 1994 reported in Mocarelli, P., P. Brambilla, P.M. Gerthoux, et al. 1996. The Lancet 348: No birth defects have been reported among the children born to parents who lived in Zone A, although there was an excess of female births during the first seven years after exposure. In contrast, less than 50 percent of the children born to Ranch Hands were female (Joel Michalek, email, September 10, 1996.)

d. Approximations supplied by Larry Needham, Centers for Disease Control, telephone conversation, Sept. 9, 1996.

e. Mocarelli, P., D.G. Patterson, A. Marocchi, and L.L. Needham. 1990. Chemosphere 20:967-974.

f. Mastroiacovo, P., A. Spagnolo, M. Ernesto, et al. 1988. Journal of the American Medical Association 259:1668-1672.

g. There are no published values for dioxin concentrations in residents of Zone R. I have approximated the concentration at 1/2 the Zone B concentration because: The dioxin level in the soil of Zone R is 1/3 the level in Zone B and animal mortality and the prevalence of chloracne (a skin disease that is indicative of dioxin exposure) are essentially the same in Zones B and R (Mastroiacovo et al. 1988. Journal of the American Medical Association 259:1668-1672.)


Bảng 2


So sánh Số Trường hợp Hổng Xương Sống Ước tính cho Seveso

(Nếu Kết luận của IOM là đúng) với Số báo cáo

Vùng ở Seveso

Số trường hợp hổng xương

Số trường hợp hổng xương

sống được ước tínha

sống được báo cáob

 

 

 

Vùng A

2.4 to 6.5

0

Vùng A (75%)c

>2.4 to >6.5

0

Vùng B

1.3 to 3.6

0

Vùng R

3.5 to 9.7

0

___________

a. 1 of 241 children fathered by Ranch Hands with low exposures (60 ppt dioxin) had spina bifida, and 2 of 268 children fathered by Ranch Hands with high exposures (294 ppt dioxin) had spina bifida. The expected frequency of cases of spina bifida in the Seveso children based on those relationships are calculated as:

frequency spina bifida rh            =            predicted frequency spina bifidas

dioxin concentration rh                         dioxin concentrations.

For instance, the frequency of spina bifida in the low exposure Ranch Hands is 1/241=0.4%, and their dioxin concentration is 60 ppt. The dioxin concentration of residents of Zone A is 500 ppt, and the relationship becomes

0.4% spina bifida                =            X% spina bifida, and X = 3.3%.

60 ppt                                                   500 ppt

For the high exposure Ranch Hands the relationship is

0.7% spina bifida                =            X% spina bifida, and X = 1.2%.

294 ppt                                                 500 ppt

Multiplying a frequency times the number of births yields an estimate of the expected number of births with spina bifida. For instance 198 births in Zone A multiplied times the expected frequency of 3.3% is 6.5, and multiplied by the expected frequency of 1.2% is 2.4.

b. No birth defect was reported in Zone A. One neural tube defect was reported in Zone B; from other information in Mastroiacovo et al. (1988), it appears that that birth defect was a brain tumor and not spina bifida. One neural tube defect was reported in Zone R, and it is impossible to tell from the paper if that defect was a spina bifida. At my request, a scientist at the Centers for Disease Control contacted Dr. Mastroiacovo and asked him if any of the neural tube defects at Seveso was spina bifida. The scientist emailed on September 16, “I e-mailed Dr. Mastroiacovo but unfortunately all the records are in storage and he is leaving today for a meeting. I'm sure he would be happy to try to get the information for you at a later time, but he won't be able to access them before the hearing.” (I'm surprised that this important information is not readily available.) However, an Italian scientist visiting Dr. L. Needham at CDC stated that there was no spina bifida in zones A, B, or R (telephone conversation, September 16, 1996).

c. The 75th percentile measurement in Zone A is about 2000. These calculations were based on an assumed average exposure of 2000 ppt, which is too low, and the assumption that the 25 percent of people with high exposures were parents of 25 percent of the children in Zone A.