RFA - Tạp chí Khoa học & Môi trường (7/06/04)

Quản Lư Toàn Diện Sâu Rầy Trong Nông Nghiệp - Integrated Pest Management In Agriculture

Phỏng Vấn TS Mai Thanh Truyết.

 

 Vừa qua, tổ chức Lương Nông LHQ (UN FAO) đă quyết định chọn năm 2004 là năm quốc tế về gạo. Tiêu đề cho năm quốc tế nầy là Gạo là Đời sống (Rice is Life). Gạo cung cấp 20% năng lượng dinh dưỡng cho thế giới và cũng là nguồn thực phẩm cần thiết cho hơn 50% nhân khẩu trên toàn cầu. Do đó, đối với những quốc gia trên, gạo là nguồn sống, là văn hoá, và tập tục của quốc gia.

 

Hỏi 1: TS có thể cho thính giả biết khái lược t́nh h́nh sản xuất gạo trên thế giới?

Đáp 1: Đối với các quốc gia vùng Đông Nam Á, gạo đóng góp hơn 50% lượng năng lượng cần thiết cho cơ thể hàng ngày. 95% gạo sản xuất trên thế giới đến từ những quốâc gia đang phát triển và hầu hết đều được sản xuất theo kỹ thuật cổ truyền của nông dân. Với tính cách thông tin, xin đan cử ra đây tỷ lệ các quốc gia sản xuất gạo trung b́nh trên thế giới từ năm 1998 đến 2000: Trung Quốc 33%, Ấn Độ 22%, Nam Dương 8%, Việt Nam 6%, Bangladesh 6%, và Thái Lan 5%. Tuy nhiên Thái Lan đứng đầu trong việc xuất cảng gạo chiếm khoảng 7 triệu tấn, sau đó đến Việt Nam gần 4 triệu tấn, Aán Độ, Trung Quốc, va Hoa Kỳ khoảng 3 triệu tấn cho mỗi nước. Đứng trước đà gia tăng dân số, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam, diện tích canh tác cho việc trồng luá gần như đă bảo ḥa nếu không nói là đang trên đà giảm dần v́ bị xâm thực bởi các chương tŕnh đô thị hoá, cũng như đất đai bị lăo hóa hay sa mạc hóa. Do đó, lănh đạo các quốc gia trên cần phải truy t́m những phương pháp mới với mục đích gia tăng phẩm chất, và gia tăng năng xuất của gạo để có khả năng cung cấp cho nhu cầu trong nước và nếu có thể, xuất cảng.

 

Hỏi 2: Trước t́nh thế nầy th́các quốc gia có mức gia tăng dân số nhanh phải làm thế nào?

Đáp 2: Chắc chắn là họ cần phải cải tiến kỹ thuật để tăng năng suất lúa v́ diện tích canh tác sẽ không thể tăng thêm được nữa trong hầu hết các quốc gia đang phát triển v́ hiện tượng đô thị hoá. Tựu trung là phải tập trung vào việc thực hiện kỹ thuật trồng lúa một cách khoa học hơn. Đó là việc kiểm soát công cuộc áp dụng phân bón chặt chẻ, và quản lư sâu rầy đúng cách trong quá tŕnh phát triển của cây lúa. Chúng ta có thể đan cử ra đây trường hợp Nam Dương làm điển h́nh cho công cuộc cải cách nông nghiệp nầy. Và đây là một cuộc cải cách thực sự nếu không nói là một cuộc cách mạng nông nghiệp mà Nam Dương đă thực hiện dưới thời Tổng thống Suharto. Tuy mức sản xuất gạo của ND chiếm 8% trên thế giới, nhưng nước nầy vẫn chưa thể tư túc lương thực được; và hàng năm phải nhập cảng gạo từ Việt Nam.

 

Hỏi 3: TS có thể nói rơ thêm trượng hợp của ND ?

Đáp 3: V́ nhu cầu lương thực cho người dân trong nước mà ND đă bước một bước khá dài trong công cuộc đổi mới nầy. Từ năm 1986, TT Suharto đă lấy quyết định nghiêm cấm xử dụng 28 loại hoá chất bảo vệ thực vật đặc biệt cho kỹ nghệ trồng lúa. Thành quả thâu đạt được đầu tiên là, từ 1986 đến 1989, Nam Dương đă khỏi phải tiêu tốn hàng năm 100 triệu Mỹ kim qua Quỷ bảo trợ nông nghiệp cho nông dân trong việc dùng các hoá chất trên. Thêm nữa, chính quyền Nam Dương nâng chính sách Quản lư ṭan diện sâu rầy làm quốc sách, như thiết lập các trường huấn luyện nông dân với mục đích nâng cao kiến thức cho nông dân trong việc xử dụng hóa chất. Kết quả hiện tại Nam Dương có hơn một triệu nông dân chuyên nghiệp tốt nghiệp ở các trường đào tạo nầy, và hầu như làng nào cũng có một hay nhiều nông dân chuyên nghiệp. Từ đó, tŕnh độ hiểu biết về canh nông của nông dân được tăng thêm qua sự hướng dẫn của nông dân chuyên nghiệp trên. Mục tiêu của các trường huấn luyện là:

1- khuyến cáo nông dân xử dụng càng ít hóa chất càng tốt,

2- nếu cần xử dụng th́ phải xử dụng có hiệu quả. Do đó, năng xuất trồng trọt tăng cao và việc cải thiện đời sống kinh tế của nông dân cũng tăng theo sau đó.

 

Hỏi 4: Kết quả thực tế của công cuộc cách mạng lương thực nầy như thế nào?

Đáp 4: Sau mười năm áp dụng, Nam Dương thu thập được những thành quả sau đây:

Việc xử dụng thuốc bảo vệ thực vật hầu như chấm dứt trong việc trồng lúa; ·        

Năng suất lúa gạo tăng 10%;       

Chi phí y tế công cộng do bị nhiễm độc giảm từ khi áp dụng chính sách quản lư ṭan diện sâu rầy. 

 

Hỏi 5: C̣n Việt Nam th́ sao? Chương tŕnh quản lư toàn diện sâu rầy có thể áp dụng được không?

Đáp 5: Nam Dương đă mở ư cho chúng ta khái niệm về Quản lư ṭan vẹn sâu rầy trong nông nghiệp. Hay rốt ráo hơn nữa là cần phải giảm thiểu việc xử dụng hóa chất bảo vệ thực vật. Có thể nói, Việt Nam là một quốc gia đă xử dụng một sản lượng hóa chất quá liều lượng so với diện tích đất trồng trọt. Từ năm 1992 đến 1994, Việt Nam đă nhập trên 420.000 tấn DDT từ Nga Sô và Trung Quốc cho mục tiêu diệt trừ bịnh sốt rét và trừ sâu rầy. Qua các nhận định trên, dù muốn dù không Việt Nam cũng phải chuyển đổi quan niệm về phát triển và sản xuất cho phù hợp với tiến tŕnh phát triển bền vững ṭan cầu và bảo vệ môi trường. Các biện pháp sơ khởi được đề nghị sau đây nhằm mục tiêu tận dụng thiên nhiên, áp dụng chu kỳ của sinh-thực-động vật để phát triển nông nghiệp và giăm thiểu tối đa việc xử dụng các hóa chất độc hại. Liên Hiệp Quốc vẫn thường xuyên cổ vơ việc trồng trọt dựa theo yếu tố thiên nhiên để không làm đăo lộn hệ sinh thái nông nghiệp (agro-ecosystem), và khuyến khích áp dụng cơ chế kiểm soát sâu bọ tự nhiên (natural pest control mechanism).

 

Hỏi 6: Như vậy người nông dân Việt Nam phải có những thay đổi như thế nào trong việc trồng lúa?

Đáp 6: Trong việc trồng lúa, nông dân cũng nên thẩm thấu các khái niệm mới (đúng đắn) để dứt khoát thay đổi cung cách và quan niệm cổ điển do việc không được huấn luyện đúng cách, và có những thông tin sai lạc nhất là việc xử dụng hóa chất trừ sâu rầy. Có những mô h́nh trồng trọt lư tưởng, hợp với thiên nhiên và cũng có nhiều mô h́nh thực tế thích hợp cho việc phát triển bền vững toàn cầu. Trước hết, xin đan cử ra đây một mô h́nh lư tưởng: Trước kia, khi chưa có vấn nạn gia tăng dân số, mô h́nh điển h́nh cho một gia đ́nh nông dân là một miếng ruộng, một miếng vườn nhỏ có cây bao bọc chung quanh nhà. Đây là mô h́nh lư tưởng cho quan niệm môi sinh mới. Nơi đây có chu kỳ sinh-diệt tự nhiên của ếch nhái, muỗi ṃng, chim chóc, nhện, rắn, chuột, và một số côn trùng khác. Các loại kễ trên tiêu diệt lẫn nhau tạo ra một sự cân bằng sinh thái mà không cần thiết phải bón phân hay dùng thuốc bảo vệ thực vật. Đây cũng là một mô h́nh lư tưởng cho việc phát triển bền vững.

 

Hỏi 7: C̣n các mô h́nh thực tế khác th́ sao?

Đáp 7: Chúng ta có thể kiểm soát sâu rầy, cỏ dại bằng những phương pháp khác hơn là dùng hóa chất. Theo nguyên tắc tự nhiên, bất kỳ một loài sinh vật nào cũng có một loài khác cấm kỵ. Do đó nông dân cần phải đủ tŕnh độ (được huấn luyện) để nhận diện các loại côn trùng, thấu hiểu cung cách ăn uống hay săn mồi của chúng để từ đó dùng các loại thích ứng để bảo vệ mùa màng. Thí dụ như các loại côn trùng cánh cứng (lady beetles), nhện đồng (wold spiders) ... có thể tiêu diệt được sâu rầy ăn lá lúa. Về cỏ dại. cần nên giải quyết vấn đề nầy trước khi bắt đầu một chu kỳ trồng trọt mới. Các biện pháp cơ học như lật đất, nhổ cỏ, hay thiêu đốt là phương pháp đúng đắn để bảo vệ và làm tăng năng suất cây trồng hơn là dùng thuốc diệt cỏ dại. Và việc chọn giống lúa có khả năng đề kháng sâu rầy cao cũng như hạt giống cần được bảo quản kỹ lưỡng, thoáng khí và khô. Năng suất có thể tăng thêm 10% với hạt giống tốt.

 

Hỏi 8: Như vậy, chúng ta có thể không cần phải xử dụng hóa chất trong việc trồng lúa chăng?

Đáp 8: Không hẳn như vậy thưa anh. Nhưng chúng ta có thể giảm thiểu việc xử dụng hóa chất trong trường hợp nầy. Dù muốn dù không cũng cần phải dùng một số thuốc bảo vệ thực vật. Tuy nhiên phải cần xử dụng đúng nơi, đúng lúc. Kenneth Fisher thuộc viện IRRI khuyến cáo là nên bắt đầu xịt thuốc trừ sâu rầy 40 ngày sau khi gieo mạ. Nếu làm sớm hơn, các loại côn trùng hữu ích chưa đủ sức đề kháng sẽ bị tiêu diệt cùng một lúc với sâu rầy, và sẽ không c̣n đủ số lượng để tiêu diệt sâu bọ c̣n sống sót sau cơn phun xịt. Nên nhớ trứng sâu bọ sẽ không bị hủy diệt nếu phun xịt sớm.

 

Hỏi 9: C̣n mô h́nh con cá ôm cây lúa ở Việt Nam th́ sao? Và quan điểm của TS như thế nào?

Đáp 9: Chính sách con cá ôm cây lúa sẽ giúp cho nông dân vừa tăng năng suất lúa lại có thêm nguồn protein động vật phụ trội. Đây là một mô h́nh tự nhiên đă ăn sâu vào đời sống các dân tộc vùng Đông Nam Á hơn 2000 năm qua. Chu kỳ tự nhiên như: Cá ăn trùng, ốc, sâu bọ, và các loại rong thuộc loại cỏ dại mềm (soft weeds). Một số côn trùng trong ruộng cũng là mồi ngon cho cá như bọ lá (leaf hooper). Và để trả lại cho thiên nhiên, cá thải hồi phân và cung cấp nguồn nitrogen, phosphor quan trọng cho đất. Do đó, việc xử dụng phân bón cũng được giảm thiểu. Thêm nữa, nếu ruộng được dẫn thủy nhập điền đúng cách và đúng chu kỳ, mô h́nh nầy có thể làm tăng năng suất lên đến 25-30% không kễ nguồn đạm chất (do cá cung cấp) có thêm sau mùa gặt. Để có thêm khái niệm về việc trồng luá, thử so sánh hai quan điểm khác nhau về cung cách canh tác lúa gạo của Việt Nam và Thái Lan. Về chu kỳ trồng lúa, Việt Nam đặt trọng tâm vào độc canh lúa: 3 mùa / năm, hoặc 2 mùa / năm. Trong lúc đó Thái Lan áp dụng phương pháp luân canh 1 mùa lúa / 1 mùa hoa màu. Làm như thế ruộng ở Thái Lan có một thời gian nghỉ ngơi cho đất là khoảng 4 tháng. Việt Nam th́ không. Với thời gian nầy, thiên nhiên có điều kiện để cho đất tự tái tạo và dĩ nhiên nhu cầu phân bón cho mùa sau sẽ giảm đi và sức đề kháng của đất cũng tăng theo, cùng với sự tái h́nh thành các vi sinh và côn trùng bạn. Thái Lan chỉ xử dụng nước mưa để trồng lúa và hạn chế tối đa thuốc bảo vệ thực vật. Do đó gạo Thái Lan có mùi thơm đặc biệt. Gạo được chà xát ít bị bể, hạt gạo rất bóng. V́ những lư do trên mà gạo xuất cảng của Thái Lan bán được cao giá hơn gạo Việt Nam: $230 - $300 / tấn so với $180 - $220 / tấn của Việt Nam.  Trên đây là một vài phương hướng căn bản trong kỹ nghệ trồng lúa, thiết nghĩ Việt Nam cần phải có một tầm nh́n mở rộng như ND để có thể tăng sản lượng gạo sản xuất trong nước và nhất là giảm thiểu được chi phí y tế do việc tiếp nhiễm các nguồn hóa chất đến từ phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Một khi sản lượng lương thực của người dân được bảo đăm, sức khỏe được an toàn, chắc chắn việc phát triển quốc gia sẽ bền vững và nhất là đất nước sẽ ít có cơ may xảy ra xáo trộn.

Kính chào Quư thính giả của Đài ACTD