NHỮNG BÀI HỌC RÚT TỈA SAU CUỘC PHỎNG VẤN

 

 

Nhật báo Orange County Register ngày 3/1/2002 đăng tải một bài viết của ký giả John Gittelsohn dựa vào chi tiết được thảo luận trong hai buổi phỏng vấn chúng tôi về vấn nạn ô nhiễm hóa chất ở Việt Nam vào tháng 12 năm 2001.  Bài viết nầy đã được các đài phát thanh địa phương như Little Saigon và VNCR trích thuật trong phần điểm báo của họ ngay buổi sáng hôm ấy.  Cuối tuần các đài địa phương khác cũng bình luận về bài viết nầy.  Về phía các nhật báo địa phương như Người Việt, Việt Báo, Viễn Đông, ... cũng có bài viết đăng tải ngay trên trang nhất phỏng dịch theo bài viết của ký giả John Gittelsohn trên báo Orange County Register vài ngày sau đó.

 

Dư âm của vấn đề rất sôi động lúc ban đầu và vẫn còn âm ỉ cho đến bây giờ.  Chúng tôi đã có dịp lên tiếng trên đài phát thanh Sống Trên Đất Mỹ, đài truyền hình SBN trong hệ thống Time Warner, đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại ở Washington, đài SBS ở Uùc châu; và sắp tới đây là đài Tiếng Nước Tôi, đài truyền hình ở San Diego.

 

Đa số báo chí Việt ngữ ở các tiểu bang Hoa Kỳ điều có bình luận về tin nầy.  Ngay cả đài BBC Luân Đôn cũng có loan tin.  Đa số dư luận đều tỏ ra quan tâm đến vấn đề và mong mõi được hai tác giả làm sáng tỏ thêm.  Do đó chúng tôi có đưa lên mạng lưới Internet, báo Người Việt ở Orange County, và báo Việt Luận ở Úc các bài tường trình về buổi hội luận trên đài Sống Trên Đất Mỹ và “Lá thư không niêm gởi Tiến sĩ toán học Nguyễn Văn Tuấn”.  Báo Tiếng Vang ở Sacramento, California cũng có bài tường trình và đăng tải tin tức liên quan đến bài báo của ký giả John Gittelsohn trên Orange County Register.  Ông Hạ Nhân trên báo Hải Vân ở Sacramento, California; báo Làng Văn ở Montréal, Canada; và nhà bình luận Đại Dương cũng góp ý thêm qua các bài viết dài.

 

Ngược lại, cũng có vài bài báo phản bác lấy danh nghĩa đại diện người tiêu thụ hàng hóa Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng như các bài viết với lời lẽ nặng tính cách “lên lớp” của Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn.  Thêm vào đó là những lá thư tuy có tên nhưng thực chất vẫn là loại thư nặc danh vì không rõ xuất xứ gửi về địa chỉ nhà riêng và cơ sở làm việc của chúng tôi.  Những thư  nầy có tính cách mạ lỵ, và nặng hơn nữa còn mang tính cách hăm dọa theo kiểu dùng bạo lực của một số người “cường điệu” muốn áp đặt “tinh thần dân chủ theo định hướng của một thiểu số”. Dĩ nhiên, đối với các loại thư sau nặc danh có tính cách hăm dọa trên, chúng tôi không đáng để lưu ý hay có ý muốn trả lời nhưng cũng đã thông báo cho cơ quan FBI theo đúng cách hành xử ở xã hội Hoa kỳ. 

 

Về phía cộng đồng người Hoa Kỳ mà chúng tôi có cơ hội tiếp xúc, hầu hết những người trao đổi với chúng tôi đều cho rằng cần phải có thêm những cuộc nghiên cứu thâm sâu hơn nữa vế vấn nạn ô nhiễm hóa chất ơ Việt Nam, và quan trọng hơn, cần phải tìm nguồn hổ trợ tài chánh tương tự như các tổ chức phi chánh phủ (NGOs), chứ không thể tiếp tục tiến hành với tính cách cá nhân như chúng tôi đã làm.  Tại các nơi chúng tôi làm việc, đa số đều hoan nghênh và ủng hộ việc làm vô vị lợi của chúng tôi.  Họ đã gián tiếp yểm trợ việc làm của chúng tôi bằng cách cho chúng tôi sử dụng những phương tiện sẳn có của họ.

 

Nói chung bài viết của ký giả John Gittelsohn sau buổi phỏng vấn gây ra một tiếng vang lớn trong cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại (và có thể ở trong nước).  Hầu hết đều lưu tâm đến tình trạng sử dụng hóa chất bừa bãi ở quê nhà, từ đó nhiều hệ lụy có thể xảy ra cho nông phẩm, thực phẩm, sức khỏe của người dân, và môi trường ở Việt Nam.  Mặc dù thảo luận về tình trạng nông phẩm và thực phẩm ở Việt Nam, chúng tôi chưa hề thảo luận về tình trạng thực phẩm Việt Nam nhập cảng vào Hoa Kỳ hay ở các nơi khác trên thế giới.  Nhưng điều hiển nhiên vẫn là thực phẩm Việt Nam, và từ đó nhiều vấn đề đã được đưa ra để “tranh cải”, hay nói đúng hơn, hăm dọa và công kích cá nhân chúng tôi.

 

Hai tháng sau khi bài báo của ký giả John Gittelsohn được đăng tải, chúng tôi đã rút tỉa một số kinh nghiệm cũng như bài học có giá trị.  Chúng tôi nghĩ rằng, những bài học và kinh nghiệm nầy cũng có thể được áp dụng cho những người có tâm huyết muốn làm một việc có ích lợi cho cộng đồng, hay xa hơn, cho phần lớn đồng bào đang thống khổ và cho đất nước vẫn còn đang dậm chân tại chỗ trước tiến trình toàn cầu hóa của nhân loại. 

 

Về phía báo Orange County Register

 

Mặc dù đã được cung cấp đầy đủ dữ kiện để biện minh cho lập luận của chúng tôi, nhưng ký giả John Gettelsohn, một mặt, có lẽ do những hạn chế của bài báo, đã không chuyển đạt những dữ kiện hay số liệu đã được cung cấp.  Mặt khác, có lẽ ký giả John Gittelshon cũng có riêng “agenda” của ông, nên ông đưa ra nhiều ý kiến không thể hiện đúng tinh thần của buổi phỏng vấn và có nhiều lập luận khiến cho dư luận không thấy được vấn đề chính mà chúng tôi luôn luôn nhấn mạnh, đó là vấn nạn ô nhiễm hóa chất và ảnh hưởng của nó đối với môi trường Việt Nam trong hiện tại và tương lai. 

 

Khi diễn dịch chi tiết được thảo luận trong buổi phỏng vấn, ông đã đi quá xa khi nói đến vấn đề ô nhiễm thực phẩm ảnh hưởng đến người tiêu thụ tại Hoa kỳ! (Dĩ nhiên, đây chỉ là một hệ lụy đương nhiên mà thôi).  Một lần nữa chúng tôi xin lập lại, chúng tôi chỉ lưu tâm đến gần 80 triệu đồng bào đang sống ở Việt Nam trong tình trạng không được bảo vệ thích đáng về sự an toàn sức khỏe và đời sống hàng ngày.

 

Trước khi báo lên khuôn, chúng tôi có yêu cầu ký giả John Gittelsohn để được xem trước (preview) bài báo, nhưng ký giả John Gittelsohn cho biết không có đủ thời gian nên việc xem trước thấy không cần thiết.  Đây cũng có thể là chủ trương của Orange County Register vì tòa báo e ngại áp lực hoặc không được đồng ý đăng tải của người được phỏng vấn.  Từ đó những ngộ nhận đã xảy ra và các cuộc “tranh luận” chỉ tập chú vào vấn đề thực phẩm Việt Nam nhập cảng vào Hoa Kỳ, cá Basa, gây khó khăn cho nông gia Việt nam, và thương ước Mỹ-Việt.  Còn vấn nạn ô nhiễm môi trường ở Việt Nam, vấn đề chính mà chúng tôi chú trọng, hầu như cố tình bị lãng quên.

 

Qua những bài “thảo luận trong tình đồng hương”, chúng tôi được tặng rất nhiều giá trị mới như  “biệt kích khoa học”, “phản bội tinh thần khoa học”, “lạm dụng khoa học”, “phản trí thức”, “khoa học giả”, và mới đây nhất là “ngụy khoa học”.  Cái giá trị “ngụy” nầy chắc chắn không khác với cái giá trị “ngụy” trong danh từ “ngụy quân, ngụy quyền” đã được chính quyền đương thời gán cho quân cán chính miền Nam sau 4/1975.

 

Bài học thứ nhất:  Chúng tôi đã được ký giả John Gittelsohn phỏng vấn cùng thời điểm với sự hiện diện của phái đoàn Việt Nam thăm viếng Hoa kỳ do Phó thủ tứơng Nguyễn Tiến Dũng cầm đầu và thương ước Mỹ-Việt mới được ký kết còn chưa ráo mực.  Vì thế báo Orange County Register có thể có nhiều chủ ý khác, do đó, họ diển dịch ý chính của chúng tôi cũng khác đi?  Dù sao đi nữa, đúc kết sau đây cũng là một kinh nghiệm quý giá cho những người sẽ được phỏng vấn trong tương lai:

 

·         Trước khi được phỏng vấn, nên yêu cầu nhà báo nêu rõ mục tiêu và mục đích của cuộc phỏng vấn.

·         Trong lúc được phỏng vấn, cần ghi rõ các đối thoại của cả hai phía để làm bằng chứng khi cần đến trong các vụ tranh cải hay kiện tụng trước tòa án.

·         Quan trọng nhất, cần phải đòi hỏi được xem bài tường trình trước khi tờ báo đưa ra công luận.

 

Có như thế mới hy vọng giữ được tính trung thực của buổi phỏng vấn và nhất là tránh được những tranh cải đối với những vấn đề tế nhị và “không thuận tình” với chế độ hiện hành ở Việt Nam.

 

Về phía cộng đồng Hoa Kỳ

 

Báo Orange County Register có số phát hành hàng ngày đôä 800.000 số.  Đây là một con số không nhỏ.  Nhưng theo lời của ký giả John Gittelsohn, tác giả của bài báo, dư luận của cộng đồng Hoa Kỳ hầu như im lặng; và họ chỉ xem đây như là một thông tin khoa học nói lên tình trạng ô nhiễm ở một nơi như bất cứ nơi nào trên thế giới ngoài đất nước Hoa kỳ.  Người Mỹ, nhất là sau biến cố 11/9 tỏ ra tính thờ ơ hơn và không lưu tâm đến những vấn đề không đụng chạm đến quyền lợi và quốc gia họ.  Rất nhiều người Mỹ không biết quốc gia Việt Nam ở vị trí nào trên quả địa cầu!  Ngoài một số bạn bè Hoa kỳ cùng làm việc chung hoặc quen biết từ trước có lưu tâm đến vấn đề cũng như hỏi thêm tin tức về Việt Nam, chúng tôi chỉ nhận một vài cú điện thoại hay vài bức điện thư từ xa để hỏi thêm những ý kiến trong bài báo mà thôi.  Người Hoa kỳ là như thế đó. Điều nầy cũng đã được giải thích cho tình trạng Việt Nam năm 1975.  Một khi người Mỹ nhận định rằng Việt Nam không còn là một yếu tố trong cuộc “mặc cả” trên bàn cờ thế giới thì họ sẳn sàng “phủi tay”.  Họ nuốt trôi tất cả những lời hứa hẹn bảo vệ Việt Nam trước đó để bỏ rơi không luyến tiếc.  Người Việt chúng ta cần học thuộc bài học nầy, nhất là đối vơi những người còn mang tâm thức đợi Mỹ và theo Mỹ về lại Viêt Nam.  Đối với người Mỹ, sẽ không bao giờ có một đồng minh muôn thuở hay một kẻ thù truyền kiếp.  Bạn hôm nay có thể là thù ngày mai, hay ngược lại.

 

Về phía cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại

 

Có thể nói phản ứng của cộng đồng người Việt là ồn ào nhất. Phản ứng đã xảy ra trên cùng khắp mọi nơi có đông dân cư người Việt tại Hoa kỳ, Canada, Pháp, Thụy sĩ và mãi đến tận Úc Châu. Tiếc rằng hầu hết là những phản ứng nặng về cảm tính hơn là khách quan phân tích.

 

Đa số dư luận đều chú trọng đến vấn đề thực phẩm nhập cảng có thể bị nhiễm độc và ảnh hưởng đến sức khỏe của chính họ khi tiêu dùng tại Hoa kỳ hay nơi mình cư ngụ mà quên đi vấn nạn có thể có ảnh hưởng đến gần 80 triệu đồng bào đang sống khắc khoải ở quê nhà.  Trên báo Đi Tới số 50 xuất bản ở Montréal, Canada trong tháng 10/2001 và những số trước đó, chúng tôi có nhiều bài viết nêu lên rất nhiều khía cạnh khác nhau của vấn nạn ô nhiễm hóa chất như arsenic, dioxin, thuốc diệt cỏ dại, trừ sâu rầy, diệt nấm, và thậm chí đến cả phân bón cho nông nghiệp.  Kết luận của chúng tôi rất minh bạch về vấn đề nầy. Chúng tôi đã nói: ” Vấn đề Dioxin hiện diện trong chất màu Da cam là một thực tế không cần phải bàn cải thêm nữa. Nhưng vấn đề ở đây là làm thế nào xác định được một cách chính xác và có căn bản về mức độ nhiễm độc của Dioxin lên con người.  Hậu quả của Dioxin phải được chứng minh bằng khoa học và phải được thử nghiệm đứng đắn.  Những nơi có đông dân cư và là những điểm nóng trong thời gian quân đội Hoa Kỳ hiện diện tại Việt Nam như ở Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Đà Nẳng… cần phải được thâm cứu hơn nữa để xác định hàm lượng của Dioxin nếu có thể có, ngõ hầu tìm phương án chửa trị cho những nạn nhân vô tình bị vướng phải”.

 

Phần ông Nguyễn Minh Quang, ông nói: “Dĩ nhiên, ảnh hưởng của việc sử dụng chất Da Cam có chứa Dioxin đối với sức khỏe và môi trường cũng không thể bỏ qua. Với sự trợ giúp kỹ thuật và tài chánh của cộng đồng thế giới, nguyên nhân của các căn bịnh như dị thai, ung thư, và các bịnh lạ khác chắc chắn sẽ được xác định nếu chính quyền Việt Nam hiện nay có quyết tâm và tạo điều kiện dễ dàng và thuận lợi để giúp cho chuyên viên quốc tế có lương tâm làm việc có hiệu quả.  Khắc phục hậu quả của “chất độc hóa học phục vụ cho chiến tranh” chỉ là một huyền thoại cho đến khi nào nguyên nhân của nó được xác định một cách khoa học, vô tư, và chính xác.  Khoa học phải đi trước, và đi trước nhiều bước.”

 

Chúng tôi, một cách minh bạch và rõ ràng, đã chứng minh và nói lên mối quan tâm của mình đến một vấn đề lớn của đất nước là hiểm họa của tình trạng ô nhiễm đủ loại hóa chất trong hiện tại và tương lai.  Chúng tôi đã gióng lên tiếng chuông và hô hào sự tiếp tay của thế giới trong vấn đề trợ giúp Việt Nam giải quyết vấn đề.  Tuy nhiên, cũng có một vài cá nhân nhân danh người tiêu thụ, thay vì trao đổi trên tinh thần khoa học với tác giả, lại lên liếng phản bác nhắm vào đời tư cá nhân của người được phỏng vấn để mặc tình bôi lọ qua các phương tiện truyền thông của họ.  Lối hành xử nầy hoàn toàn đi ngược với lề lối dân chủ đã có từ lâu tại Hoa Kỳ mà cũng chính là niềm mong ước và hy vọng trong thâm tâm của những người còn nghĩ đến Việt Nam.  Người Mỹ với một nền dân chủ pháp trị đã hành xử quyền hạn công dân của mình trong một tinh thần khách quan và dân chủ.  Xin đan cử ra đây một thí dụ về phản ứng của Hiệp hội người Tiêu dùng Hoa Kỳ về vấn đề thực phẩm: Vào cuối tháng 12/2001 họ quyết định đưa 18 công ty nhập cảng thủy sản tại California ra tòa vì nhập tôm đông lạnh có chứa hóa chất Chloramphenicol.  Đây không phải là một bài học lớn hay sao?

 

Trong bài viết “Sự đỗ vỡ trong cộng đồng Việt Nam” (Fragmentation in the Vietnamese Community), tác giả James Banerian (4/1988) đã phân tích những dấu hiệu và hệ quả của vấn đề trên như những đúc kết về cá tính của người Việt Nam trong cộng đồng hải ngoại. Từ đó ông đưa ra những kết luận thật khắt khe về bản tính người Việt Nam.  Xin tạm dịch một phần trích dẫn:”Về bản chất, cá tính người Việt thường được mô tả là ích kỷ. Những cố gắng của họ nhắm đến quyền lợi cá nhân hơn là quyền lợi cộng đồng.  Người Việt là những người đua tranh chứ không phải là những người hợp tác.  Họ không thẳng thắn và cởi mở trong giao tiếp.  Họ nhìn sự việc một cách mơ hồ, không cụ thể và không đi vào chi tiết.  Hơn hết, người Việt ít tự trọng và kính trọng lẫn nhau.”

 

Từ nhận xét về bản tính trên, mặc dù có vẻ tổng quát hóa, chúng ta có thể giải thích được hiện tượng người Việt công kích cả những người cùng phe với mình thay vì tập trung sức lực để cùng đi đến một mục tiêu chung. Nguyên nhân chính của hiện tượng nầy có thể được tóm gọn như sau: Các thành viên trong cộng đồng của chúng ta chưa học được tinh thần dân chủ, tinh thần bình đẳng và lòng khoan dung một cách thấu đáo.

 

Quyền tự do diễn đạt và bày tỏ sự bất đồng thường được thể hiện qua tinh thần “cả vú lấp miệng em”, hay “khủng bố và hăm dọa” như chúng tôi buộc lòng phải dùng những biện pháp khác theo cách của chúng tôi” (trích nguyên văn trong một thơ nặc danh gửi đến chúng tôi).  Ở đây, sự cởi mở và tính thẳng thắn, ngay cả tinh thần trách nhiệm và sư tương kính cũng vắng bóng trong những tranh luận có tính cách mở và công khai.

 

Về phương diện truyền thông báo chí, chúng tôi có thể nêu ra trường hợp báo Việt Luận ở Úc châu với chủ trương đề ra cho tờ báo là “cơ quan ngôn luận của người Việt tự do”.  Vậy mà tờ báo đã “tự ý cắt bỏ” một câu trong “Thơ không niêm gởi Tiến sĩ toán học Nguyễn Văn Tuấn” của chúng tôi và ông Nguyễn Minh Quang.  Xin trích dẫn: “Chúng tôi nghĩ, nếu có khó khăn, thì đó là khó khăn cho những ai đang trục lợi dưới nhiều hình thức trên sự khốn khó của người dân và tình trạng chậm tiến của đất nước Việt Nam. Chính họ là những người đang ‘khó chịu’ với những vấn đề mà chúng tôi nêu lên”.   Khi được hỏi lý do thì Việt Luận trả lời chúng tôi trên e-mail là: “lý do tôi bỏ vì câu đó, mặc dù không rõ ràng lắm- không liên quan đến nội dung tranh luận, và có tính áp đặt, gán ép. Nói rõ hơn, đó là một câu theo tôi nghĩ là chụp mũ”.  Chúng tôi cũng xin thêm, các bài viết phỉ báng và mạ lỵ cá nhân chúng tôi thay vì thảo luận vấn đề trên căn bản khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn thì được Việt Luận đăng không sót một chữ. Chúng tôi xin nhường quyền phê phán hành động nầy của Việt Luận cho dư luận.

 

Bài học chúng tôi rút tỉa được trong phần phân tích phản ứng của cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại là chúng ta cần học hỏi thêm về dân chủ trong một xã hội pháp trị và phải có một tinh thần thỏa hiệp.  Mọi khác biệt đều có thể được giải quyết thỏa đáng để tìm ra giải pháp hợp lý cho vấn đề hơn là khư khư giữ mãi quan điểm cố cựu là “được ăn cả, ngã về không”.  Có như thế, mới có cơ may thấy được tiến bộ trong quá trình đoàn kết và xây dựng cộng đồng.

 

Về phía người Việt ở trong nước

 

Chúng tôi có một số bạn bè cũ hiện vẫn còn hoạt động trong phạm vi chuyên môn tại quê nhà.  Chúng tôi có tiếp xúc và được họ chia sẻ mối quan tâm về tình trạng ô nhiễm mà chúng tôi đã quan tâm. Họ càng khuyến khích chúng tôi đừng nản chí dù gặp bao trở ngại và chống đối mù quáng do ý thức hệ hay chỉ vì muốn bảo vệ cường quyền.  Họ cũng khuyên chúng tôi nên cố gắng đào sâu thêm nữa, thu thập thêm nhiều dữ kiện để hy vọng có thêm những kết luận chính xác hơn nữa.

 

Còn chính quyền Việt Nam, qua lời của phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao, đã lên tiếng phản bác ngay sau khi bài báo của ký giả John Gittelsohn được đăng tải và lời phản bác đó được báo chí Việt ngữ ở khắp nơi trên thế giới trích thuật. Theo đó, chúng tôi bị phê bình là không có cơ sở khoa học khi nói thực phẩm tại Việt Nam bị ô nhiễm, và rằng thực phẩm xuất cảng của Việt nam được khen ngợi ở khắp nơi, đặc biệt là ở Âu Châu.  Nhưng chỉ một tuần lễ sau, một cách ngẫu nhiên, Liên hiệp Âu châu (European Union) đã ra thông cáo tịch thu các mặt hàng thủy sản của Việt Nam có chứa hóa chất độc hại và đòi chi phí US$ 7.100 cho mỗi thùng chứa (container) cho việc xử lý và đổ bỏ.  Ngoài ra, trên mạng lưới điện toán xuất phát từ Việt Nam (?), một e-mail tên HV chứa đầy những lời mạt sát cá nhân chúng tôi với lối hành văn xuyên tạc một cách trẻ con;  cũng như một bài báo trên báo Tuổi Trẻ tại SàiGòn, ngày 29/1/2002, được biết do một phóng viên ở California viết, cũng có những luận điệu tương tự.

 

Thật đáng buồn cho sự thiếu vắng tinh thần dân chủ trong một chế độ học đòi cổ xúy tự do dân chủ và luôn nhân danh nhân dân và dân tộc trong việc điều hành quốc gia.  Quan trọng hơn là, việc nầy có thể khiến cho những người còn lưu tâm đến vấn đề Đất và Nước sẽ chùng bước lại trong cung cách đóng góp cho Việt Nam, nhất là trong những vấn đề có tầm vóc quốc gia.  Nói một cách khác, tiến trình về với quê hương của những người con Việt Nam ở hải ngoại có thể do đó mà bị đẩy xa ra.

 

Nguyễn Bá Học đã từng nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông .  Chúng tôi xin cả quyết một lần nữa, những hệ lụy vừa kễ trên sẽ không làm chúng tôi nản lòng, mà trái lại, càng khiến cho chúng tôi có thêm động lực mới để khai quang (chứ không phải “khai hoang”) đại lộ dân chủ ở Việt Nam.  Lần nầy, thuốc khai quang được sử dụng sẽ không chứa dioxin để có thể gây ung thư và dị thai; ngược lại, thuốc khai quang sẽ tẩy độc cho con người và đất nước Việt Nam vốn đã bị ô nhiễm nghiêm trọng vì giáo điều và chủ nghĩa.

 

Một câu luận ngữ khác: “Đường xa gánh nặng, kẻ sĩ cần có lòng quảng đại và tánh cương nghị”, rất thích hợp và thực tiển hơn lúc nào hết, và vẫn luôn luôn là châm ngôn cho kẻ sĩ của mọi thời đại.

 

Mai Thanh Truyết

Little Saigon 1/3/2002