BĂI RÁC ĐÔNG THẠNH IV

 

Những ḍng chữ nầy được viết ra vào cuối tháng 10,2003, nghĩa là hơn một năm ba tháng nhà máy xử lư nước rỉ của băi rác Đông thạnh đi vào hoạt động với công suất 1250 m3/ngày, nhưng t́nh trạng ô nhiễm môi trường ở chung quanh băi rác vẫn hoàn toàn không được cải thiện, mà trái lại càng về sau càng trầm trọng.

 

Vấn đề được đặt ra là: có phải v́ công nghệ áp dụng cho thiết kế nhà máy quá lạc hậu, hay v́ thiếu ngân sách xây cất và vận hành, hoặc do cung cách quản lư yếu kém gây ra t́nh trạng không lối thoát.

 

Về kỷ thuật xây cất nhà máy, trên mặt lư thuyết các cán bộ chuyên môn của Việt Nam đă từng học hỏi, tham khảo, tham quan nhiều băi rác trên thế giới, cộng thêm sự giúp sức của các cố vấn Thụy Điển, Ḥa Lan về kỷ thuật và tài chính. Do đó không thể nói được rằng v́ ấu trỉ hay thiếu hiểu biết để không thể nào bảo quản sự vận hành điều ḥa của nhà máy.

 

Về ngân sách, chi phí thiết lập nhà máy xử lư nước rỉ  khoăng 32 triệu Mỹ kim, một ngân sách rất lớn cho một băi rác như Đông Thạnh, với 6 triệu tấn rác thải và ước tính trên 200.000 m 3 nước rỉ độc hại tồn độïng kinh niên (vietnamnet 17/10/2003). Để có một khái niệm so sánh, băi rác BK, Los Angeles là một băi rác lớn chứa hơn 80 triệu tấn rác nhưng chi phí xây dựng cho nhà máy xử lư gần nhu tự động chỉ tốn có 5 triệu và đang tiếp tục hoạt động liên tục (24/24) từ hơn 15 năm nay.

 

Như vậy, nếu căn cứ trên diện tích rác được xử lư, và so sánh với chi phí tiêu tốn cho nhà máy xử lư Đông Thạnh, nhà máy xử lư BKK phải cần một chi phí là .. . 32 triệu x 13,3 (lần số lượng rác cần xử lư nhiều hơn) = 426 triệu Mỹ kim (!). Hay ngược lại nếu tính theo chi phí xây dựng cho nhà máy BKK, th́ với chi phí xây dựng nhà máy Đông Thạnh, chúng ta có thể xây cất hơn 6 nhà máy xử lư tự động tương tự cho Việt Nam.

 

Các số liệu so sánh trên cho chúng ta có khái niệm và nhận định chắc chắn rằng, chi phí xây dựng cho một nhà máy xử lư nước thải ở Việt Nam quá cao và quá dư thừa và mức dư thừa đó vượt qua tất cả mọi dự tính trong việc soạn thảo kế hoạch tài chính và thiết kế của bất cứ nhà kế hoạch tài ba nào trên thế giới.

 

Có thừa khả năng hiểu biết về công nghệ tiên tiến, có thừa ngân sách xây cất gấp nhiều cần hơn so với việc xây cất một nhà máy điển h́nh ở Hoa kỳ, mà sao nhà máy xử lư nước rỉ tại Đông Thạnh lại chết non? Câu hỏi nầy chỉ có một cách lư giải logic nhất là quy trách vào yếu tố thứ ba trong ba vấn đề được nêu ra ở phần trên: đó là cung cách quản lư thiếu hiệu quả nếu không nói là tệ hại.

 

Sau khi băi rác Đông Thạnh đóng cửa, thành phố HCM đă xây dựng khu xử lư rác G̣ Cát (B́nh Chánh). Đây là một băi rác có diện tích 17,7 hecta tại xả B́nh Hưng Ḥa, có khả năng tiếp nhận 2.000 tấn rác/ngày Theo báo cáo, nhà máy xử lư nước rỉ nầy được xây dựng theo một công nghệ tiên tiến, máy móc hiện đại&với kinh phí xây cầt khoăng độ 20 triệu Mỹ kim do chính phủ Ḥa Lan viện trợ cả chuyên viên lẫn tài chính. Tuy nhiên công tŕnh đă bắt đầu từ cuối năm 2001, và cho đến nay (10,2003) hệ thống xử lư nước rỉ vẫn chưa thể hoạt động được. Và t́nh trạng ứ động nước rỉ ở băi rác Đông Thạnh lại tái diễn nơi đây và hậu quả về môi trường vẫn không ngăn ngừa được và nạn nhân vẫn là những cư dân sống trong vùng. Để chữa cháy thành phố đă thuê công ty quản lư môi trường Centema để xử lư tạm.. . với công suất vận hành ́ ạch vài chục m3/ngày.

 

Băi rác thứ ba của thành phố là khu xử lư Tam Tân (xả Hiệp Phước, Củ Chi) với tổng diện tích 500 hecta cũng thiếu chuẩn bị về quy tŕnh xử lư nước rỉ. Trong khi chưa hoàn tất giai đoạn một, thành phố đă cho phép nhận rác và sự cố vỡ bờ như trường hợp ở Đông Thạnh mới vừa xảy ra nơi đây, khiến cho hoa màu chung quanh bị thiệt hại nghiêm trọng (10/2003)

 

Trên b́nh diện của cả nước, hầu như bất cứ một thành phố lớn nào ở Việt Nam cũng có những vấn đề tương tự như băi rác Đông Thạnh. Như  nhà máy xử lư băi rác chính của thành phố Biên Ḥa mất 5 năm xây dựng với chi phí ~ 7 triệu Mỹ kim chỉ hoạt động có đúng .. . 7 ngày. Và từ đó đến nay, nơi đây lại biến thành một băi rác ngày càng vĩ đại hơn.

 

Tương tự, băi rác Tràng Cát nằm cách khu dân cư của hai phường Tràng Cát và Nam Hải (Hải An, Hải Pḥng) khoăng 1 Km. Nh́n từ xa đó là một ngọn đồn cao 17,8 m rộng 5 hecta chứa hành ngàn m3 rác của thành phố Hải Pḥng từ 1998 đến 2003. Băi rác cũng có nhà máy xử lư nước rỉ, nhưng các ao hồ nuôi tôm cá trong vùng điều bị ô nhiễm, nhiều khi bị mất trắng v́ nước rỉ đă thoát ra ngoài phạm vi băi rác. Ngoài ra, người dân c̣n phải sống chung với chuột và ruồi nhặn cả ngày lẫn đêm và phập pḥng lo sợ hỏa hoạn có thể xảy ra bất cứ lúc nào do rác tự bốc cháy do lượng khí methane quá cao (Báo Lao Động ngày 14/10/2003). Dù chưa giải quyết thỏa đáng băi rác số 1 Tràng Cát, thành phố Hải Pḥng đă quyết định cho xử dụng băi rác số 2 từ tháng 4/2003 cách băi rác trước chưa đầy 1 Km. Băi nầy rộng 11 hecta dự kiến chứa rác từ 2003 đến 2005 và vẫn không có dự án thiết lập nhà máy xử lư. Và ngay tiếp theo sau đó, băi rác thứ ba với diện tích 33 hecta cũng được quy hoạch kề cận. Hải Pḥng với tệ nạn ô nhiễm do nhà máy xi măng cổ xưa từ hơn 100 năm nay, nay lại phải hứng chịu thêm thảm nạn do các băi rác gây ra tạo nên một thế trận ô nhiễm liên hoàn mà người dân sống trong vùng phải chịu đựng: bầu khí quyển dơ bẩn v́ khói xi măng, nguồn nước sinh hoạt và mănh đất dùng để nuôi sống người dân trong bao đời bị ô nhiễm v́ rác...

 

Trên đây là những trường hợp điển h́nh nói lên toàn cảnh  của vấn đề giải quyết chất thải sinh hoạt của người dân ở Việt Nam. Đây là một thảm nạn lớn cho đất nước. Từ việc truy t́m nguyên nhân và hậu quả cho vấn đề trên, chúng ta nh́n thấy một cách chắc chắn rằng đây là kết quả đương nhiên của một chính sách quản lư tồi tệ, và nếu không thay đổi tư duy đất nước Việt Nam sẽ đi vào ngơ cụt  vô phương cứu chữa.. (Nơi đây không nói đến tệ nạn tham nhũng và tê nạn nầy đă trở thànhquốc nạn mà phạm vi bài viết thấy không nhất thiết phải nêu ra.)

 

Nh́n chung, vấn nạn ô nhiễm đă thể hiện khắp nơi trên mănh đất h́nh chữ S thân yêu của chúng ta, bao trùm từ Bắc chí Nam. Đâu đâu cũng rền vang tiếng kêu than của người dân thấp cổ bé miệng về t́nh trạng ô nhiễm do phế thải sinh hoạt của các hộ gia cư khắp nơi.

 

Sông Tô lịch không c̣n là một di tích lịch sử chống ngoại xâm ngày xưa mà là một trung tâm chứa rác! Tại Quảng Ngăi, tôm cá chết trắng hàng loạt v́ nước thải của nhà máy đường. Rồi sông Vàm Cỏ Đông, oai hùng trong cuộc chiến trở thành câu chuyện đầu ngày do sự tắc trách của nhà máy đường Hiệp Ḥa. Sông La Ngà (Biên Ḥa), kinh Nhiêu Lộc & .. và hàng ngàn sông, rạch, ao hồ khác là những băi rác thiên nhiên và lộ thiên cho người dân xử dụng (theo ước tính của một tham luận trong Hội thảo khoa học bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ngày 28/10/2003 tại Hà Nội do Ban Khoa giáo trung ương tổ chức th́ hàng ngày có 1.200 m3 rác thải sinh hoạt thả vào các khu ven hồ và kinh rạch nội thành).

 

Nghịch lư thay, trước thảm nạn trên, những người cầm vận mạng đất nước vẫn tiếp tục rao giảng và hô hào qua tuyên ngôn, hội thảo về sự thành công của chính sách phát triển cho Việt Nam. Gần đây nhất, hội thảo V́ sự phát triển bền vững của Việt Nam được tổ chức  tại Hà Nội ngày 2-3/10/2003 do Uûy ban Khoa học, Công nghệ, và Môi trường tổ chức phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư đạt được kết quả là nêu bật lên ư nghĩa của việc phát triển bền vững Việt Nam trên lư thuyết. Và trong Hội thảo ngày 28/10 kễ ở phần  trên, PTT Nguyễn tấn Dũng lại chỉ đạo và đề ra những giải pháp cho việc bảo vệ môi trường, bao gồm: bảo vệ nguồn nước, thực hiện  việc trồng rừng 5 triệu hecta/năm, và xử lư triệt để các cơ sở gây ô nhiễm. .. Thực ra, hiện trạng phát triển vô kế hoạch, vô tổ chức, và nhất là thiếu hoặc không nghiên cứu tác động môi trường trên bất cứ đề án phát triển nào của Việt Nam mới đích thị là nguyên nhân căn bản của t́nh trạng môi trường xuống cấp ở Việt Nam.

 

Làm sao giải quyết và chấp hành được chỉ đạo của Phó Thủ tướng khi mà Tp HCM chỉ có 24/142 cơ sở y tế (bịnh viện) có hệ thống xử lư nước thải bịnh viện, và 3.000/28.573 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, gần 900.000 hecta rừng biến mất trong khỏang thời gian từ 1978 đến 2002, và hàng năm lại có thêm 60.000 hecta rừng tiếp tục bị xóa sổ? (trích từ các số liệu trong Hội thảo 28/10 tại Hà Nội).

 

Căn cứ theo số liệu của Ngân hàng thế giới, muốn giải quyết hậu quả của vấn nạn môi trường, Việt Nam cần phải có một ngân sách là 100 triệu Mỹ kim hàng năm cho chi phí nầy (Báo SGGP 3/10/2003). Trên thực tế, ngân sách quốc gia dành cho việc chi tiêu trên chỉ vào khoăng 9 triệu Mỹ kim cho cả nước!

 

Để kết luận, người viết hy vọng sẽ không c̣n viết loạt bài Băi Rác Đông Thạnh V trong những ngày sắp tới nữa.

 

Mai Thanh Truyết

West Covina, 10/2003