Nghị Định Thư Kyoto & Sự Hâm Nóng Toàn Cầu

 

Các lư thuyết về sự hâm nóng toàn cầu phát sinh từ cuối thế kỷ 19 do những nhà khoa học Thụy Điển trong khi quan sát sự thay đổi nhiệt độ của không khí bị ô nhiễm để rồi từ đó kết luận rằng trái đất nóng dần do con người phóng thích các khí ô nhiễm vào không khí. Lư thuyết nầy là nguyên nhân khởi đầu cho bao cuộc thảo luận sau đó giữa các nhà khoa học. Họ đă vơ đoán là từ năm 1896, thán khí (CO2) thải vào không khí do việc đốt than đá để tạo ra năng lượng là nguyên nhân chính gây ra hiệu ứng nhà kính. Theo ước tính, thán khí trong không khí đă tăng 30% từ 1750 đến nay.

Măi đến năm 1949, sau khi khảo sát hiện tượng tăng nhiệt độ trong không khí ở Âu Châu và Bắc Mỹ từ năm 1850 đến 1940 so với các nơi khác trên thế giới, các nhà nghiên cứu Anh đă đi đến kết luận là sự phát triển ở các quốc gia kỹ nghệ đă làm tăng lượng ô nhiễm thán khí trong không khí, do đó làm cho mặt đất ở hai vùng nầy nóng mau hơn so với các vùng chưa phát triển.

Đến năm 1958, các cuộc nghiên cứu của Mauna Loa Observatory (Hawai) đặt ở cao độ 3345m mới chứng minh được khí CO2 là nguyên nhân chính yếu của sự gia tăng nhiệt độ nầy. Đến năm 1976, các chất khí methane, chlorofluorocarbon (CFC), nitrogen oxide (NO) cũng được xác nhận là nguyên nhân của hiệu ứng nhà kính.

Từ năm 1979 đến 1983, nhiều báo cáo của Hàn Lâm Viện Quốc gia về Khoa học  Hoa Kỳ đă chứng minh và cảnh báo rằng nơi nào có ô nhiễm không khí trầm trọng là nguy cơ có nhiệt độ không khí tăng càng lớn.

Năm 1990, 49 nhà bác học đă có giải Nobel đă ra thông cáo kêu gọi mọi quốc gia trên thế giới phải có biện pháp tức thời để hạn chế ô nhiễm không khí hầu băo vệ quả địa cầu.

Các cuộc nghiên cứu mới nhất do hai khoa học gia Karl và Trenberth  trên tạp chí Sciences số tháng 12/2003 nói lên tính cách khẩn thiết của vấn đề nầy. Theo ước tính của hai ông  th́ từ 1990 đến 2100, nhiệt độ trên mặt địa cầu sẽ tăng từ 3,1 đến 8,9oF  (1,6 đến 4,2oC). Và sự tăng nhiệt độ nầy sẽ làm nóng chảy hai tảng băng ở Greenland và Antartica và có thể làm ngập lụt các bờ biển. Điều sau nầy sẽ làm thu hẹp diện tích sống của con người trên quả địa cầu. Để rồi từ đó sinh sản ra nhiều hệ lụy như sau:

·                    Trái đất sẽ chịu đựng những luồng khí nóng bất thường;

·                    Hạn hán sẽ thường xuyên hơn và xảy ra ở nhiều nơi;

·                    Mưa to, băo tố xảy ra bất thường cũng như không thể tiên liệu trước như hiện nay;

·                    Hệ thực vật, sinh vật bị thay đổi;

·                    Và sau cùng mực nước biển sẽ dâng cao ở nhiều nơi ước tính khoảng 75cm năm 2100.

 

Và hiệu ứng nhà kính đă được giải thích một cách khoa học hơn như sau: Các khí kễ trên di chuyển trong bầu khí quyển, nhốt (trap) khí nóng thải hồi từ mặït địa cầu, do đó khí nóng nầy không thể thoát ra ngoài không gian được. Ngược lại, các khí trên cũng đă hành xử như một nhà kính để lọc các tia sáng mặt trời  trước khi vào trái đất. Tháng 4,2004 Trung tâm Nghiên cứu Mauna trên lại vừa công bố một báo cáo khoa học mới nhất trong đó ghi nhận  nồng độ của thán khí (CO2) trong năm 2002 là 376 mg/L và năm 2003 là 379mg/L. Và trong ṿng 10 năm trở lại đây, mức thán khí tăng hàng năm là 1,8mg/L; trong lúc đó mức tăng trung b́nh là 1mg/L ở 5 thập niên về trước. Lư do chính là do sự phát triển của Trung Quốc và Aán Độ.

Nghị định thư Kyoto, một dự thảo hiệp ước do Liên Hiệp Quốc băo trợ và đă được  166 nguyên thủ quốc gia trên thế giới đồng ư trên nguyên tắc, quy định rằng: Cho đến năm 2012, các quốc gia trện thế giới phải giăm thiểu các khí phóng thích kễ trên 5,2% so với định mức của năm 1990. Dự thảo Nghị định thư (NĐT) nầy gồm 26 Điếu khoảng và 2 Phụ lục sẽ trở thành một quyết định chung cho toàn cầu nếu có trên 55% tổng số các quốc gia tính theo tỷ lệ năng lượng cần thiết trong các quá tŕnh sản xuất kỹ nghệ của từng quốc gia một. Hoa Kỳ, vào năm 1990, đă sản xuất 36,1% sản phẩm của toàn thế giới, do đó có trách nhiệm trên 36,1% lượng khí phóng thích vào bầu khí quyển tạo ra sự hâm nóng toàn cầu. Trong lúc đo Nga Sô chịu trách nhiệm 17,4%.

Tính đến ngày 30/11/2003, tổng số các quốc gia đă chuẩn y Nghị định thư Kyoto chỉ đạt được 44,2%, do đo, dù NĐT vẫn chưa được đem vào áp dụng. Hoa Kỳ và Nga Sô cho đến hôm nay vẫn chưa chịu chuẩn y. Việt Nam đă phê chuẩn NĐT ngày 25/9/2002.

 

Vậy nguyên do nào khiến cho Hoa Kỳ không chịu kư vào Nghị định thư?

 

Có nhiều nguyên nhân khiến cho chính quyền của Tổng thống Bush không chịu duyệt y. Đó là:

 

·                    Hoa Kỳ không đồng ư hoàn toàn về sự phân chia tỷ lệ trách nhiệm về lượng khí thải của các quốc gia phát triển và miễn cho những quốc gia đang mở mang, trong đó có Trung Quốc và An Độ. Theo quan điểm của Mỹ th́ hiện tại Trung Quốc và An Độ phải góp phần trách nhiệm hiệu ứng nhà kính toàn cầu nầy. Và cũng theo ước tính căn cứ theo sự phát triển kỹ nghệ của Trung Quốc th́ nước nầy phải chịu trách nhiệm của 5,1% lượng khí thải vào không khí.

·                    Hàng năm nếu tính diện tích của rừng được tái tạo ở Hoa Kỳ th́ lượng CO2 do rừng hấp thụ lại có thể được khấu trừ lượng khí thải hồi từ kỹ nghệ. Hay nói khác đi tỷ lệ khí mà Hoa Kỳ cần phải giảm theo quy định sẽ ít hơn như đă được ghi trong NĐT.

·                    Nếu phải giăm như theo quy định của Nghị định thư , Hoa Kỳ e ngại sự suy trầm kinh tế sẽ xảy ra sau đó cho quốc gia nầy.

 

Tuy nhiên, Hoa Kỳ cũng đă tỏ nhiều thiện chí trong việc làm giảm thiểu hiệu ứng nhà kính đối với các hảng xưởng trong nước như:

1) Thiết lập các chương tŕnh tự nguyện và khuyến khích các đại công ty chuyển đổi qua các quy tŕnh công nghệ sạch, cũng như nghiên cứu phương pháp làm giảm lượng khí thải hồi như làm đông đặc, hay chuyển khí vào ḷng đại dương để xử lư;

2) Tạo ra những ngân khoản để phụ cấp cho các nghiên cứu trên, và đối với những công ty thàng công trong việc giảm thiểu mức khí thải th́ được nâng đở như giảm thuế. Ngày 5/12/2003, Bộ Năng lượng Hoa kỳ đă phát thảo ra dự luật về chương tŕnh t́nh nguyện trên và sẽ đi vào áp dụng sau ngày 5/2/2004, trong đó các cơ sở quản lư phải công bố mức khí thải hồi hàng năm cũng như lượng khí đă được xử lư.

Trở về Nghị định thư Kyoto, Nga Sô sẽ là quốc gia quyết định hiện nay để biến nghị định thư thành luật. Nếu Nga Sô đồng ư, tỷ lệ số quốc gia đă duyệt y sẽ là 44,2% + 17,4% = 61,6% (>55%) và nghị định thư Kyoto sẽ thành luật và Hoa Kỳ bắt buộc phải tuân thủ giảm thiểu 7% của định mức năm 1990 ở năm 2012. Thế giới hy vọng sau mùa bầu cử tổng thống ở Nga, TT Putin vừa tái đắc cử, và viện quốc hội Duma của Nga sẽ nhóm vào khoảng tháng 6/2004.

Có thể từ đó, chúng ta sẽ thấy những xáo trộn và nhiều tranh luận đối kháng chung quanh việc thi hành hiệp ước Kyoto cho toàn cầu. Vấn đề nơi đây là không phải tranh đấu cho tỷ lệ cần phải giảm thiểu của từng quốc gia, mà chính yếu là phải t́m biện pháp quản lư chặt chẻ lượng khí thải hồi của các nhà máy, nguyên nhân chính yếu của hiện tượng nhà kính.

 

Cảnh báo khẩn cấp

 

Vào cuối tháng 2,2004, Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ có cho công bố một báo cáo khoa học quan trọng liên quan đến an ninh quốc pḥng về việc thay đổi thới tiết đột ngột do hai khoa học gia về tương lai học (futurist) nghiên cứu. Báo cáo cảnh báo rằng, nhiệt độ sẽ giảm 5oF ở Á Châu, Bắc Mỹ, và Bắc Aâu Châu; và sẽ tăng 4oF ở Uc , Nam Phi, và Nam Mỹ kéo theo hạn hán, giông tố vào mùa đông, và gió mạnh ở những vùng kễ trên. Báo cáo c̣n ghi nhận thêm sự thay đổi nhiệt độ sẽ có một tiến tŕnh nhanh chóng chứ không thay đội điều đặn như  dự liệu. Có thể xảy ra trong vài thập niên tới đây. Các cuộc nghiên cứu ở ḷng biển sâu có chỉ dấu cho thấy ḍng chảy của luồng nước ấm chảy chậm lại. Và điều nầy có thể làm cho thời tiết không c̣n thay đổi theo như sự vận chuyển định kỳ như trước đây.

Những sự kiện kễ trên có thể xảy ra ở những vùng khác nhau, tuy nhiên việc ảnh hưởng lên toàn cầu sẽ làm xáo trộn t́nh h́nh an ninh xă hội của thế giới. V́ vậy, các quốc gia giàu cần phải chuẩn bị để tránh t́nh trạng bi thảm có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Hoa Kỳ với kỹ thuật tiên tiến có thể chịu đựng và chế ngự được những thay đổi trên do nước nầy có một hệ thống nông nghiệp đa dạng thích ứng với nhiều điều kiện thời tiết khác nhau. Điều nầy không thể có được đối với các quốc gia khác ở Á và Aâu châu. T́nh trạng thiếu lượng thực, nước uống và năng lượng có thể xảy ra và từ đó sẽ phát sinh ra một hiện tượng di cư đại đến từ Á Châu và các quốc gia Trung Mỹ.

Sau cùng, báo cáo tiên đoán rằng Au Châu sẽ phải chiến đâu gay go với t́nh trạng kễ trên. Á Châu đối mặt với những khũng hoăng lương thực và nước sinh hoạt. Tất cả sẽ làm xáo trộn xă hội hoàn toàn và tạo ra thêm nhiều tranh chấp liên quốc gia không thể tiên liệu được.

 

Để kết luận, nguyên nhân gây ra hiệu ứng nhà kính là do thán khí và một số khí thải kỹ nghệ thải hồi vào bầu khí quyển. Tuy nhiên, cũng c̣n có nhiều giả thuyết khác nhau đến từ nhiều trường phái khoa học về cách lư giải cho hiệu ứng nhà kính. Một số khoa học gia trong khi nghiên cứu về hành tinh Mars đă đưa ra một giả thuyết về sự thành h́nh của mặt địa cầu như sau: Chu kỳ nóng lạnh của trái đất là một hiện tượng tuần hoàn. Trong hiện tại, quả địa cầu đang đi vào một cuộc vận hành nóng để rồi sau đó sau một vài thiên niên kỷ sẽ chuyển trở qua chu kỳ lạnh. Lư do căn bản để làm điểm tựa cho lập luận nầy là vin vào thời đại của người Viking ở Bắc Cực. Ở vào thời nầy, những vùng có người Viking sinh sống, vẫn có nhiều đồng cỏ do đó họ có điều kiện để chăn nuôi và trồng trọt, chứ không là một tảng băng vĩ đại như hiện tại. Nếu giả thuyết nầy là một sự thật th́ thuyết Am Dương cũng có thể là một giải đáp cho bài toán nóng lạnh của trái đất.

Và cung cách hành xử của chúng ta đối mặt trước vấn nạn hâm nóng toàn cầu là cần phải có những hành động tích cực thích ứng với xă hội chúng ta đang sinh sống. Đó là:

·                      Cùng nhau vận động với chính quyền sở tại để thúc đẩy tiến tŕnh áp dụng NĐT Kyoto;

·                      Ung hộ vận động cho các dân cử địa phương cũng như trung ương có khuynh hướng băo vệ môi sinh và đề xướng chính sách cân bằng phát triển/môi trường;

·                      Và sau hết, đối với mỗi người trong chúng ta, việc thay đổi và điều chỉnh cuộc sống hàng ngày cho thích ứng với nguy cơ hiện tại như: tiết kiệm năng lượng, xử dụng nước sinh họat hợp lư, không bừa băi hay phí phạm, và nhất là lượng hấp thụ lương thực, thực phẩm cần phải được hạn chế vừa đủ cung ứng cho nhu cầu cơ thể mà thôi.

 

Có được như vậy, chúng ta, may ra vừa băo vệ được sức khỏe, vừ có thể kéo dài thêm đời sống của hành tinh chúng ta đang cư ngụ.

 

Mai Thanh Truyết, California 3/2004