Ô Nhiễm Nguồn Nước.   

Trên thế giới ngày nay, giống Homo Sapiens hay con người chiếm cứ hầu hết khắp nơi trên mặt địa cầu với 6,2 tỷ và có khả năng gia tăng 80 triệu nhân khẩu mỗi năm. Không nơi nào không có dấu chân người. Ước tính đến năm 2050, thế giới sẽ chứa tổng cộng trên 10 tỷ, trong đó dân số trong 48 nước nghèo nhất sẽ tăng gấp ba lần trong khoảng thời gian nằy. 

Để có thêm khái niệm về tình trạng nước trên thế giới, xin đan cử ra đây vài số liệu cần nên biết. Tổng sản lượng nước trên thế giới gồm: 97,5% nước biển (mặn) và chỉ có 2,5% nước ngọt. Trong 2,5% nầy chỉ có 0,4% nước mặt gồm sông ngòi, ao hồ và hơi nước trong không khí, 30,1% nước ngầm, và phần còn lại là những tảng băng trải rộng ở Bắc và Nam cực. Và sau cùng trong 0,4% nước mặt đó, có 67,4% nước ao hồ, 1,6% sông ngòi, 12,2% nước đã thấm vào đất, 9,5% hơi nước trong không khí, và phần còn lại gồm các vùng đất ngập nước (wetland). (dữ kiện từ National Geographic 9/02). 

Sự phân bổ nước trên thế giới hoàn toàn không đồng bộ do điều kiện địa lý từng vùng, sự lạm dụng của những quốc gia kỹ nghệ, và sự “nhắm mắt làm ngơ” không giúp đở các quốc gia nghèo đói của các “nước lớn”. Ba điều trên đã tạo ra một tình trạng bất cân đối trong việc xử dụng nguồn nước trên thế giới. Theo ước tính, có 70% lượng nước trên thế giới được xử dụng cho nông nghiệp, 20% cho kỹ nghệ, và 10% cho sinh hoạt gia đình. Hàng ngày, trong nhiều vùng ở Phi Châu, phần đông cư dân không có hơn một lít nước dùng cho sinh hoạt cá nhân; trong lúc đó ở Hoa kỳ, mức tiêu thụ nước cho mỗi người dân có thể lên đến 700 lít cho một ngày; và người dân Paris tiêu thụ 100 L/ngày. 

Thêm nữa, sự gia tăng dân số kéo theo nhu cầu cần phải phát triển nông nghiệp, do đó việc tận dụng nguồn nước, nhất là nước ngầm sẽ là một nguy cơ làm cạn kiệt nguồn nước trong tương lai. Trước mắt, các quốc gia đang phát triển phải trực diện với nạn gia tăng dân số vì không có khả năng ngăn chặn mức sinh sản của người dân, các nước nầy sẽ là những nạn nhân đầu tiên của nạn khan hiếm nguồn nước. Để có khái niệm rõ thêm về vấn đề nước, thiết nghĩ cũng cần nên biết về những yêu cầu đòi hỏi cho nước “sạch” và tiêu chuẩn cần có để bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng. 

Định nghĩa và Tiêu chuẩn nước sạch 

Nước là một nhu cầu không thể thiếu của con người. Trung bình nước chiếm độ 75% trọng lượng của cả cơ thể. Nói về nước “sạch”, theo định nghĩa, nước sạch là nước chỉ chấp nhận sự hiện diện của các hợp chất hữu cơ, kim loại và các ions hòa tan với một vi lượng rất nhỏ tuỳ theo độc chất của các chất kễ trên. Và định mức nầy đã được Liên hiệp quốc cũng như các quốc gia trên thế giới chấp nhận tùy theo điều kiện phát triển của từng quốc gia. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn cho nước uống ở các nơi cũng gần giống nhau. Căn cứ theo Code of Federal Regulations thuộc EPA Hoa kỳ, các tiêu chuẩn cần có cho nước uống gồm: 

·                     Ions: nồng độ của Fluor trong nước không được quá 2mg/L; Chlor, 250 mg/L; Sulfate, 250 mg/L; Nitrate, 45 mg/L….. .

·                     Kim loại: Aluminum, 0,2 mg/L; Antimony, 0,006 mg/L; Asenic, 0,010 mg/L; Chromium, 0,050 mg/L; Thủy ngân, 0,002 mg/L; Nickel, 0,100 mg/L; Selenium, 0,050 mg/L; Đồng, 1,0 mg/L; Sắt, 0.3 mg/L; Manganese 0,050 mg/L; Bạc, 0,100 mg/L; Kẽm, 5.0 mg/L.

·                     Ngòai ra, tiêu chuẩn còn có ghi thêm trên 100 hợp chầt hữu cơ với hàm lượng cho phép hiện diện trong nước rất thấp tính từ phần tỷ đền phần ức (ppb và ppt).

·                     Về các yếu tố vật lý thì độ dẫn điện (specific conductance) không được vượt quá 900 microhmos. Lượng chất rắn hòa tan (TDS) cũng không được quá 550 mg/L.

·                     Cũng cần phải kễ thêm tiêu chuẩn vi sinh, tức mức E-coli không quá 23 MPN/100mL (most probable number-MPN).

 Nói chung, nước được gọi là sạch và hợp vệ sinh khi đạt được các tiêu chuẩn yêu cầu trên và có độ pH trong khoảng từ 6,5 đến 7,5 (pH trung hòa trong nước là 7,0). Tuy nhiên, còn có các tiêu chuẩn kễ tuy không nằm trong định mức của tiêu chuẩn quy định cho nước sạch, nhưng là những chỉ dấu đầu tiên để xét nghiệm phẩm chất của nước. Đó là Độ oxy hòa tan (DO), và Nhu cầu oxy (COD); chỉ số sau cùng nầy để ước tính mức độ hợp chất hữu cơ hòa tan trong nước. 

Phẩm chất nước ở ĐBSCL và miền Đông Nam Việt 

Các dữ kiện trình bày sau đây được căn cứ vào tài liệu “Số liệu chất lượng nước 1985 – 1997” do Trung tâm Chất lượng Nước và Môi trường thực hiện trong dự án Giám sát Hạ lưu Lưu vực Mekong thuộc Uûy ban Mekong Quốc gia cho ĐBSCL. Đối với miền Đông Nam Việt, các dữ kiện nêu ra được lấy từ báo chí ở Việt Nam, báo cáo của Sở Môi trường Thành phố, và của Ngân hàng thế giới (WB). 

Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, chúng tôi chỉ nêu ra hai trường hợp điển hình ở khu Tứ giác Long xuyên va vùng Cà Mau từ đó có thể suy diễn ra các vùng chung quanh cùng chịu chung ảnh hưởng của môi trường trong vùng ĐBSCL. 

Nhìn chung, vùng ĐBSCL chưa bị ảnh hưởng nhiều của việc phát triển kỹ nghệ do đó mức ô nhiễm hữu cơ và vi sinh không đáng kễ. Tuy nhiên, do việc xử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón quá tải cho nông nghiệp, nứơc ở nhiều vùng đã có chỉ dấu ô nhiễm thuốc DDT và nitrate. 

Các tiêu chuẩn nêu ra sau đây dùng để lượng định khái quát phẩm chất nước ở vùng nầy là : Độ oxy hòa tan (Dissolved oxygen – DO), Chlor, và pH. Ngoài ra các dữ kiện khác như: Tổng lượng chất rắn hòa tan (Total Dissolved Solids-TDS), Sulfate, Phosphate, Calcium, Magnesium, Natrium, Kalium, Aluminum, và COD (chemical oxygen demand).. . cũng đã được phân tích, nhưng kết quả vẫn còn ở mức độ chấp nhận được cho nên không cần phải thảo luận nơi đây. 

Trước hết, Độ oxy hòa tan (DO) có khuynh hướng giảm dần từ mùa nước nổi so với mùa khô, giảm theo thủy triều lên và xuống, cũng như giảm theo thời gian tính từ 1985 trở đi. DO trung bình trong nước uống (sạch) là 7.8 mg/L. Trong những tháng khô, có nơi DO xuống thấp còn 0,4 (nếu DO xuống dưới 3,0 mg/L các nguồn sinh vật như tôm cá sống trong nước có nguy cơ bị chết ngộp). Điều đáng quan ngại hơn cả là DO giảm theo thời gian, và nếu hiện tượng nầy tiếp tục thì hệ luận tự nhiên là khối lượng tôm cá trong nguồn nước ở vùng nầy có thể bị “tuyệt chủng”!

 Độ chlor trong nước: Nồng độ chlor cũng thay đổi theo mùa nước nổi (tháng 8,9,10,11), và mùa khô (tháng 2,3,4,5). Trung bình vào mùa khô nồng độ chlor thay đổi từ 20.000 đến 80.000 mg/L, so với mùa nước nổi là 5.000 – 10.000 mg/L. Trong những năm sau 1985, nồng độ Chlor có khuynh hướng tăng dần và điều nầy đã được chứng minh là hiện nay mức độ nhiễm mặn đã đi vào sâu trong đất liền, có nơi sâu hơn 80 cây số so với khoảng độ 20 cây số mười năm trước đây. Vấn đề nầy ảnh hưởng không nhỏ đến việc giảm thiểu diện tích đất dùng cho nông nghiệp.

 Độ pH cũng giãm theo mùa nước nổi, trung bình từ 7,0 đến 7,5, so với mùa khô, từ 5,0 đến 6,0.Tuy nhiên, trong mùa nầy có nhiều nơi pH hạ xuống thấp đến dưới 3,0, và vơiù mức độ nầy thì tôm cá khó sống sót được.

Ngược lại với vùng ĐBSCL, miền Đông Nam Việt chịu áp lực nặng nề của việc phát triển kỹ nghệ, do đó hầu như tòan thể sông Sài gòn, sông Đồng nai từ hồ Trị An về hạ lưu, sông Thị Vải (DO ở vùng nầy xuống thấp từ 1 đến 0,3 mg/L theo tin tức mới nhât của Sở KHCN&MT thành phố ngày 30/10/02). Sông Vàm Cỏ Đông đều đã bị ô nhiễm nhất là ô nhiễm vi sinh (gấp ngàn lần hơn tiêu chuẩn cho phép) và hữu cơ. Đặc biệt các dòng kinh chung quanh thành phố HCM và Biên hòa hòan tòan bị ô nhiễn nặng và không còn thấy dấu vết của tôm cá trong nguồn nước. Cũng cần nên nhắc thêm là, hiện nay chính quyền đang cho mở mang vùng Saì gòn Nam và vì không lưu ý đến hệ thống thoát nước và xử lý nước sinh hoạt, các kinh đào vùng nầy đã bắt đầu bị ô nhiễm tương tự như kinh Nhiêu Lộc và các con kinh liên hệ. Dự kiến trong một tương lai gần thì thành phố Sài gòn Nam sẽ bị một vấn nạn giống như thành phố Sài gòn hiện tại. 

Theo báo cáo mới nhất của Sở KHCN & MT thành phố HCM (22/10/2002) trung bình mỗi ngày sông Đồng nai và Sài gòn phải hứng chịu trên 852.000 m3 lượng ô nhiễm từ nước thải sinh hoạt với hàm lượng DO thấp và COD quá cao (tiêu chuẩn sau nầy để ước tính nồng độ hữu cơ trong nước). Ngoài ra còn có một khối lượng lớn nước thải kỹ nghệ của trên 30 ngàn cơ sở sản xuất cũng được chuyển tải thẳng vào nguồn nước không qua xử lý. Một vài con số sau đây cho thấy mức độ trầm trọng của vùng nầy. Vào mùa khô năm 1995, nồng độ DO trên sông Sài gòn đã giảm xuống dưới 3,0 mg/L. Mùa khô năm 1999, lần đầu tiên tại Bến Than, thượng nguồn sông Đồng nai đã có chỉ dấu ô nhiễm hữu cơ và chung quanh lưu vực Biên hòa, nhiều nơi chỉ số DO xuống còn 2,3 mg/L. Và cũng tại Bến Than, độ mặn đo được vào đầu tháng 2/1999 là 400 mg/L. Cũng cần phải nói thêm là lượng nitrogen và phosphor trong nước đã làm tăng lượng rong tảo, và điều nầy đã làm tắc nghẽn hệ thống lọc trong quá trình xử lý ở nhà máy Thủ Đức nhiều lần trong năm 2002 nầy.  

Lưu lượng nước thải sinh hoạt hàng ngày đổ vào lưu vực sông Sài gòn dự tính cho năm 2020 là 1,6 triệu m3. Do đó, chất rắn lơ lững (TSS), hợp chất hữu cơ, nitrogen, phosphor. .., vi khuẩn, dầu mỡ, kim loại nặng, thậm chí PCBs và nhiều hóa chất bảo vệ thực vật sẽ ngày càng tích tụ nhiều hơn trong lòng sông, và dòng nước sẽ không còn đủ lưu lượng và thời gian để tự “rữa” những dơ bẩn do ô nhiễm gây nên. 

Kễ từ tháng 7/2001, Sở Khoa học, Công nghệ, Môi trường phối hợp với Sở Kế hoạch Thành phố HCM thành lập Quỷ Giảm thiểu ô nhiễm để cho các doanh nghiệp vai vốn nhằm đổi mới công nghệ, sản xuất sạch hơn, và nhất là xử lý chất thải. Nhưng đến nay (1/2003), không ai chấp hành và “dòng nước đen” trên sông Sài gòn vẫn tồn tại trên hơn tháng nay. Cả 32 doanh nghiệp quan trọng chưa có hệ thống xử lý nước thải là nguyên nhân gây ô nhiễm kinh Tham lương (Báo Người Lao Động 13/1/2003). Về phía hạ lưu đã như vậy, còn ngược dòng về phía thượng lưu của sông Sài gòn đến tận lưu vực thị trấn Lái thiêu, tình trạng ô nhiễm còn nặng nề hơn (Bao Người Lao động 12/1/2003). Do ảnh hưởng của thủy triều (bán nhật triều cho vùng hạ lưu sông Sài gòn) dòng nước đen không tiêu thoát ngay mà cứ dập dềnh, gây ô nhiễm cả một khúc sông, từ khu vực nội thành đến cầu Bình phước. 

Thêm nữa, bãi rác Đông Thạnh (Hốc môn) còn tồn đọng hơn 300.000 m3 nước rỉ và bãi rác Gò cát (Bình chánh), khoảng 30.000 m3. Hệ thống nhà máy xử lý ở hai nơi nầy đã được xây dựng với chi phí $32 triệu Mỹ kim cho Đông thạnh và $7 triệu cho Gò cát (nhà máy tại đây do công ty Vermeer của Hòa Lan xây dựng) chỉ hoạt động được vài tuần lễ sau khi khánh thành. (Nhà máy xử lý nước rỉ bán tự động của một bãi rác lớn nhất thành phố Los Angeles được xây dựng với phí tổn $5 triệu và đã liên tục hoạt động 24 giờ/ngày trong suốt 15 năm qua). Do đó,một trong những nguyên nhân tạo ra dòng nước đen ở lưu vực sông Sài gòn là do nước rỉ từ hai bãi rác trên chảy qua sông Rạch tra. Tại thành phố HCM, với ước tính dân số độ 7 triệu mà chỉ có 40 “cán bộ quản lý môi trường” với kinh phí 2,5 tỷ đồng VN (tương đương $170.000 Mỹ kim) thì thữ hỏi làm sao có thể giải quyết được tận gốc của vấn đề. 

Nguồn nước ngầm của vùng Sài gòn cũng bị ảnh hưởng nặng. Nhiều giếng đóng trong vùng không còn được xử dụng được nữa vì trong nước có chứa quá nhiều chất hữu cơ và kim loại nặng như manganese, chì, thủy ngân và chrom. Theo kết quả phân tích chất lượng nước ngầm năm 2002, có 11/11 vị trí không đạt tiêu chuẩn nước uống vì ô nhiễm vi sinh, 6/11 ô nhiễm ammonium, 6/11 chất rắn hòa tan cao. Nước ngầm ở Tân tạo và Bình chánh đã bị nhiễm mặn nặng (Báo Tuồi trẻ 30/12/2002). Vào tháng 9/2002, có 8/22 lỗ khoan ở lưu vực tp HCM không có nước, điều nầy cho thấy lượng nước ngầm khai thác ngày càng tăng làm mực nước ngầm bị hạ thấp.  

Tóm lại, các chỉ dấu trên đây cho thấy tình trạng ô nhiễm trầm trọng ở các sông ngòi miền Nam Việt Nam. Theo dự báo của Sở Môi trường thành phố HCM thì lượng ô nhiễm phế thải sinh hoạt và kỹ nghệ đổ vào hai sông Sài gòn và Đồng nai sẽ tăng lên 400% cho năm 2005. Nếu không có biện pháp thích ứng ngay từ bây giờ, chắc chắn chỉ trong vài năm nữa thành phố Biên hòa và HCM cùng các vùng phụ cận sẽ không còn đủ lượng nước sinh hoạt cho người dân trong vùng. 

Nguyên nhân ảnh hưởng đến phẩm chất nước 

Có rất nhiều nguyên nhân ô nhiễm ảnh hưởng đến phẩm chất nước; tùy theo điều kiện từng vùng trong phát triển, ô nhiễm tác động lên nguồn nước khác nhau. Vùng ĐBSCL chịu áp lực của việc khai thác nông nghiệp và kỹ nghệ tôm cá cho nên đặc tính ô nhiễm có sắc thái khác hơn miền Đông Nam Việt, chịu nhiều áp lực của phát triển kỹ nghệ. 

·                     Việc phá rừng: Theo báo cáo 2002 của Chiến lược Quốc gia Bảo vệ Môi trường (National Environmental Protection Strategy) do Ngân hàng Thế giới bảo trợ thì trong 5 thập niên vừa qua lượng rừng bao phủ cả nước giảm từ 43% xuống còn 29%. Việc nầy ảnh hưởng nặng nề đến nguồn nước trong lòng đất. Một thí dụ điển hình và gần đây nhất, nước sông Hương trở nên vẫn đục nhiều ngày và có độ COD cao, TSS, TDS cao, cũng như độ pH. Chưa bao giờ nước sông Hưong bị nhiễm mặn như lúc nầy, và hầu như tòan thể dân chúng thành phố Huế được phân phối nước uống bằng xe bồn trong nhiều ngày (tháng 8/02). Tại vùng Ca øMau và Bạc Liêu, dựa theo ước tính từ không ảnh chụp được qua vệ tinh năm 1999, diện tích rừng tràm đước (mangrove forests) đã bị phá hủy độ 200.000 hecta để dùng cho việc nuôi tôm. Và không ảnh cũng cho thấy khoảng độ 50% diện tích trên đã bị bỏ hoang vì không còn khai thác được nữa. Cũng theo báo cáo trên trong vòng 5 thập niên trở lại đây ở vùng nầy Việt Nam đã khai thác hơn 80% rừng tràm và đước.

 Rừng tràm, rong biển, và san hô là ba nhân tố có tính cách trao đổi sinh học và hóa học hổ tương với nhau trong việc cân bằng hệ môi sinh bờ biển và duyên hải. Ngày nay, nước thải kỹ nghệ tăng nhanh và “độ tẩy rữa” tự nhiên của thiên nhiên không theo kịp đà thải hồi do con người làm ra, do đó tình trạng môi trường xuống cấp càng nhanh ỡ những nơi nầy. Theo ước tính của Environmental Justice Foundation (London) thì hơn 95% san hô dọc theo bờ boển Việt Nam bị đe dọa trầm trọng trong đó hơn phân nữa đang có khả năng bị kết dính thành tảng (sedimentation).

 Nhiễm mặn, nhiễm phèn, và sự acid hóa: Nguồn nước vùng ĐBSCL đã bị nhiễm mặn và acid hóa trầm trọng nhất là mùa khô như đã nói ở phần trên. Miền Đông Nam Việt cũng đã bị ảnh hưởng tương tự. Theo tin tức mới nhất tại tỉnh Đồng tháp (28/10/02), độ phèn từ các tuyến bờ bao vườn quốc gia Tràm Chim ở Tam Nông tỏa ra và làm cho khỏang 100 tấn cá nuôi trong vùng bị chết.

 Vấn đề đào giếng: Việc đào giếng để có nước sạch do UNICEF (LHQ) cổ vũ đã là một vấn nạn cho ĐBSCL. Việc làm nầy đã khuyến khích nông dân tăng gia phát triển và tận dụng nguồn nước trong nông nghiệp và chăn nuôi. Hệ quả trước mắt là, ngoài việc nhiễm độc arsenic trong nguồn nước cũng như mạch nước ngầm cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Tại Trà Vinh, theo báo cáo tháng 2/2000, đã có 41.512 giếng khoan, và việc tận dụng nguồn nước đã làm mực nước ngầm giảm từ 2 đến 2,5 thước. Thêm nữa, lượng sắt và ô nhiễm vi sinh tăng gấp 200 – 300%.

 Vấn đề thủy lợi: đào kinh và đê điều: Từ hơn 10 năm nay, ngòai việc khuyến khích đào giếng khoan, Việt Nam còn đẩy mạnh việc dẫn thủy nhập điền để hy vọng tăng gia nông nghiệp. Việc nầy đã gây ra nhiều hậu quả là lụt xảy ra thường xuyên và có chu kỳ ngắn hơn trước đây. Hần như hàng năm đều có lụt. Hệ thống “đê bao quốc gia” và “đê bao địa phương” thiết nghĩ cũng dự phần không kém quan trọng vào vấn nạn lũ lụt trên. Hàng năm vào mùa nước nổi, mực nước đo được ở Tân châu và Châu đốc tuy chưa đến mức báo động (3,0 m ở Tân châu và 2,5 m ở Châu đốc) mà cả vùng khu Tứ giác Long xuyên và Đồng tháp mười đã bị ngập rồi, vì nước trên nguồn đã chảy vào hai vùng nầy trước, thay vì chảy thẳng ra biển do các kinh đào mới thiết lập sau nầy.. Do đó, khi mực nước lên cao thêm nữa, tức nhiên tình trạng lũ lụt sẽ xảy ra mà thôi. Kỹ sư Nguyễn Minh Quang, chuyên viên thủy lợi đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề nầy và đã được đăng tải trên nhiều báo chí Việt Nam và ngoại quốc. Xin đan cử ra đây phát biểu của KS Nguyễn Minh Quang trong một cuộc phỏng vấn do Radio Australia thực hiện vào ngày 26/1/2002 sau đây: “Từ sau năm 1975, ngoài việc nạo vét và nới rộng các con kinh hiện có, một hệ thống kinh thủy lợi day đặc được đào xuyên qua vùng Động tháp mười, khu Tứ giác Long xuyên, và một số vùng khác trên khắp ĐBSCL. Có một số kinh nối với các kinh bên Cambodia. Vì không có công trình đằu mối để kiểm soát lưu lượng, hệ thống kinh thủy lợi nầy biến thành những lòng lạch thuận lợi cho nước lũ từ Cambodia tràn vào các vùng trũng nầy dễ dàng hơn, nhanh hơn và nhiều hơn. Lượng nước lũ nầy thay vì được chảy trở vào sông Tiền và sông Hậu ở hạ lưu, hoặc thoát ra vịnh Thái lan, hoặc đổ vào sông Vàm cỏ để thoát ra biển Đông đã bị ngăn chặn bởi một hệ thống đường giao thông được xây mới hoặc nâng cao hơn mực nước lụt năm 1961. Sau khi tràn qua hệ thống đường giao thông nầy, nước lũ lại bị ngăn chận một lần nữa bởi hệ thống đê đập và cống rãnh xây ở cuối đường thoát lũ thiên nhiên để ngăn chận sự xâm nhập của nước mặn. Vì bị ngăn chận cho nên nước lũ tích tụ lại khiến cho mực nước lụt dâng cao hơn. Thêm nữa, vì cấu cống của hệ thống đường giao thông và đê đập, cống ngăn mặn không đủ khẩu độ, nước lũ phải mất nhiều thời gian hơn để thoát ra biển làm cho thời gian ngập lụt kéo dài hơn.

 Sau trận lũ lụt 2000, chính quyền Việt Nam tiếp tục đào thêm kinh, đấp thêm đê, và nâng cao hệ thống đường giao thông cho cao hơn mực nước lụt năm 2000. Lũ lụt ở ĐBSCL năm 2001 và 2002 chính là hậu quả, trực tiếp hoặc gián tiếp, của các dự án thủy lợi và công trình giao thông được “nâng cấp” nầy.”  

Phân bón và thuốc bảo vệ thực vật: Như đã nói ở phần trên, cả hai loại hóa chất nầy đã đi vào nguồn nước trầm trọng. Trong gần một năm nay, hầu như hàng ngày, trên các mặt báo trong nước mà chúng tôi thu lượm được từ internet, tin tức người dân bị trúng độc vì ăn uống các hoa màu đã được phung xịt bằng hóa chất trên. Tổng kết cho đến ngày 26/10/2002, chúng tôi cho phổ biến trên internet hơn 500 tin tức liên quan đến vấn đề nầy.

 Phế thải kỹ nghệ ở các nhà máy xản xuất: Mặc dầu kỹ nghệ sản xuất hóa chất, thực phẩm, hàng tiêu dùng của Việt Nam vẫn còn trong tình trạng thô sơ nhưng vì việc quản lý phế thải chưa được thi hành nghiêm chỉnh cho nên hầu như tất cả phế thải lỏng đều đi thẳng vào nguồn nước. Tình trạng trên là một nguy cơ rất quan trọng vì hai nguồn nước sông Sàigòn và Đồng nai là hai nguồn nước chính cho hàng chục triệu cư dân sống chung trong vùng.

 Phế thải gia cư và phế thải rắn kỹ nghệ: Đây là một vấn nạn lớn lao nhất hiện tại. Cho đến bây giờ Việt Nam chưa thể hiện chính sách hay biện pháp nào để giải quyết vấn đề của các phế thải trên. Theo ước tính của LHQ, một người dân sống ở thành thị Việt Nam phóng thích trung bình 0,7 Kg rác/ngày. Với dân số 7 triệu, hàng năm thành phố HCM phải giải quyết 1,8 triệu tấn rác sinh hoạt, không kễ đến rác từ các bịnh viện và phế thải rắn từ kỹ nghệ. Hầu hết phế thải (tính luôn cả khoảng 80% phế thải y tế) đều được tập trung vào các bãi rác lớn như Đông thạnh (Hốc môn) (đã đóng cửa chính thức vào ngày 31/12/2002), Gò cát (Bình chánh) cho thành phố HCM và bãi rác Biên hòa cho thành phố Biên hòa. Sau vụ “bễ bờ” do nước rỉ tràn ra năm 2000, nhà máy xử lý rác tại đây đã được xây dựng lại sau đó và được khánh thành ngay 7/6/2002 với chi phí tương đương với 32 triệu Mỹ kim (500 tỷ đồng VN), với công suất được ước tính là 100.000 m3 cho đến hết năm 2002. Nhưng lượng nước rỉ còn tồn đọng tại bãi rác là 300.000 m3 và hàng ngày có thêm 200 – 300 m3 nước rỉ mới. Do đó nguy cơ vỡ bờ vẫn còn bị hăm doạ thường xuyên. (Xin nhắc là nhà máy chỉ xử lý cơ học, nghĩa là không thể giải quyết được lượng chất hữu cơ và kim loại nặng hiện diện trong nước thải và ô nhiễm vi sinh). Riêng với nhà máy xử lý rác ở Biên hòa, nhà máy nầy đã được xây dựng từ năm 1994 và đến 2/5/1997 mới được khánh thành với chi phí 7 tỷ đồng VN. Chỉ sau 7 ngày hoạt động, máy đã tắt tị, và biến thành một bãi rác mới cho đến ngày nay

Cũng cần nên kễ thêm một trong những nguyên nhân chính là ý thức của những người chủ doanh nghiệp và chủ đầu . Họ chỉ chú trọng đến đầu tư cho sản xuất, còn vấn đền xử lý chát thải để bảo vệ môi trường thì thường bị gác lại. Tất cả chỉ vì lợi nhuận mà không nghĩ đến tác hại về lâu dài.

 Tóm lại, tất cả các nguyên nhân chính yếu kể trên đều có thể giải quyết được nếu VN có một tầm nhìn quyết tâm và một chính sách biết đặt trọng tâm vào việc giải quyết và làm sạch môi trường. Nếu ngược lại, chúng ta sẽ không bao giờ thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm cả! 

 Thay lời kết 

Trong kỳ Đại hội của Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam diễn ra vào tháng 7/1997 tại Garden Grove, người viết đã cảnh báo vấn nạn ô nhiễm nguồn nước ở tp HCM. Nhưng so với lần nầy, phẩm chất nước ngày càng xuống cấp và tệ hại hơn nữa là ở nhiều nơi tôm cá và sinh vật không thể tồn tại được trong một nguồn nước đã bị ô nhiễm. 

Như phân tích ở phần trên, chúng tôi đã trình bày phẩm chất nước cùng những nguyên nhân liên hệ đến tình trạng xuống cấp của nguồn nước vùng ĐBSCL và Đông Nam Việt. Các nguyên nhân trực tiếp có thể được nêu ra như: 1- nhân sự quản lý còn hạn chế và chưa đủ tầm vóc kỹ thuật để giải quyết vấn đề, 2- ngân sách dành cho việc quản lý môi trường quá ít so với mức độ tăng trưởng của dân số và mức phát triển xã hội, 3- chính quyền chưa lưu tâm đúng mức hoặc chưa có tầm nhìn dài hạn cho phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. 

Đứng trước tình trạng bế tắc môi trường hiện nay, thật khó có thể biện minh cho việc thất bại trong chính sách bảo vệ môi trường. Việt Nam đã được LHQ yểm trợ triệt để trong việc thiết lập Luật Môi trường năm 1993 (được tài trợ $3 triệu Mỹ kim cho việc nầy). Và điều luật căn bản để được cấp giấy phép hoạt động cho một cơ sở hay một dự án sản xuất, chế biến, hoá chất . .. phải có: 1- báo cáo về nghiên cứu tác động môi trường, 2- giải quyết chất phế thải bằng các biện pháp thích ứng. Tuyệt đại đa số các cơ sở đều được thành lập khoảng một thập niên trở lại đây trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986, nghĩa là phải tuân thủ theo điều luật môi trường trên. Nhưng nghịch lý thay, hơn 95% của vài chục ngàn cơ sở rãi rác trong thành phố HCM đều không có phương án giải quyết phế thải mà vẫn ngang nhiên được hoạt động bình thường. Xin đan cử công ty bột ngọt Vedan (Biên hòa) sau vô số vi phạm, đã bị Sở KHCNMT thành phố đề nghị đóng cửa vỉnh viễn từ năm 1996, vẫn còn hoạt động và tiếp tục vi phạm như chở phế thải “đi dấu” ở Tây ninh năm 2002 (?). Tương tự, công ty Vissan, cung cấp chế biến thực phẩm vẫn tồn tại. Hảng dệt Thành công và Thắng lợi ngày ngày đổ 14.400 m3 và 3.600 m3 phế thải vào kinh Tham lương. Rồi hảng Dầu Trường An, Tân Bình, Công ty Kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam . .. Đây là những đại công ty có đầu tư ngoại quốc, đã được đưa lên danh sách vi phạm và vẫn tiếp tục làm ô nhiễm kinh Tham lương. 

Quả thật đây là một nghịch lý mà người viết chỉ xin nêu ra để quy kết một chính sách quản lý môi trường “kỳ quặc” đưa đến tình trạng môi trường xuống cấp một cách tệ hại nầy. 

Ngày nào não trạng nghịch lý trên chưa được chuyển đổi hay đã thông thì đừng mong gì tình trạng ô nhiễm môi trường trong nguồn nước ở Việt Nam được cải thiện. 

Mai Thanh Truyết, West Covina 2/2003