Đài Á Châu Tự Do Phỏng Vấn TS Mai Thanh Truyết Về

Vấn Nạn Ô Nhiễm Arsenic ở Việt Nam

 

Biên tập viên Đức Duy (ĐD) đài Á châu Tự do  (Radio Free Asia) phỏng vấn Tiến sĩ Mai Thanh Truyết (MTT) về vấn nạn ô nhiễm arsenic ở Việt Nam ngày 18/6/2002 trên chương trình Khoa học Kỹ thuật. Bài phỏng vấn sẽ được phát thanh vào ngày 23 và 30/6/2002.

 

ĐD: Trong nhiều bài viết mà anh có nhã ý gữi cho chúng tôi tại đài Á Châu Tự Do, tôi đã nhận thấy là anh nói nhiều đến kinh nghiệm ô nhiễm arsenic ở Bangladesh. Xin anh cho biết qua về vấn đề nầy tại Bangladesh.

MTT: Thưa anh,là một chuyên viên  trong việc quản lý và xử lý môi trường tại Hoa kỳ gần 20 năm, chúng tôi đã hằng lưu tâm đến những vấn đề môi sinh liên quan đến ô nhiễm nguồn nước, đất và không khí. Nhưng từ khi Hội nghị Thượng đỉnh về Toàn cầu hóa tại Rio de Janeiro năm 1992 tại Ba Tây, vấn đề Việt Nam trở thành ưu tiên hàng đầu của chúng tôi trong nghiên cứu.

Năm 1997,chúng tôi đã đọc bài tham luận về tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở thành phố Hồ chí Minh trong ngày Đại hội của Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam (VAST) tại khách sạn Hyatt, Garden Grove. Tiếp theo đó, trong năm 1998, chúng tôi đã cảnh báo vấn nạn D D T và nitrate hiện diện trong nguồn nước ở ĐBSCL. Và sau cùng, ô nhiễm arsenic trong nguồn nước trở thành trọng tâm nghiên cứu của chúng tôi sau khi vấn đề arsenic ở Bangladesh và Tây Aán độ đã được thế giới xem như là một thảm nạn của thế kỷ. Thảm nạn nầy ảnh hưởng lên hơn 50 triệu người sống trong vùng sau hơn 25 năm được UNICEF tài trợ, khoan đào hơn 4 triệu giếng với mục đích để cho người dân có nguồn “nước sạch”.

Qua kinh nghiệm ở Bangladesh, arsenic đã nằm yên trong trầm tích cho đến khoảng 1960. Vì muốn tránh cho người dân bị nhiễm do vi trùng dịch tả, thương hàn, kiết lỵ, các cơ quan viện trợ quốc tế qua UNICEF đã khích lệ việc dùng nước giếng để giải quyết vấn nạn do các bệnh tật gây ra. Nhưng từ đó, hệ lụy trước mắt là thảm nạn arsenic bộc phát vào những năm 90 tại nơi nầy. 

 

ĐD: Có phải vì Bangladesh mà anh nghĩ đến vấn đề tương tự của Việt Nam không?

MTT: Thưa anh, sông Hằng hà (Ganges) bắt nguồn từ rặng Hy Mã Lạp sơn mang phù sa xuống đồng bằng hạ lưu là Bangladesh; hiện tượng nầy cũng tương tự như sông Cửu Long, phát nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, và Đ BSCL là hạ lưu sau cùng của dòng sông trước khi chảy vào biển Thái Bình. Cấu trúc của hai cao nguyên ở vào niên đại đệ tứ. Phù sa có màu rỉ sắt quen thuộc ở miền Nam Việt Nam, đó chính là arseno-pyrite với công thức hóa học là As-FeS2. Chất nầy mang nguồn arsenic trong thiên nhiên và không hòa tan trong nước. Chính vì lý do tương tự sau khi so sánh hai dòng sông khiến cho chúng tôi lưu tâm đến vấn đề nhiễm độc arsenic tại Viêt Nam.  Người dân ĐBSCL chỉ cần đánh phèn bằng hàn the (borax) hay phèn chua trước khi dùng. Theo năm tháng phù sa tích tụ ở trong lòng đất sâu. Trong khi đào giếng, arseno-pyrite tiếp xúc với oxy trong không khí và qua phản ứng oxyt hóa và khử, arsenic được phóng thích, hòa tan trong nước dưới dạng arsenite và arseniate, chính chất sau cùng là nguyên nhân làm nhiễm độc nguồn nước.

 

ĐD: Qua kinh nghiệm của Bangladesh, anh đã đặt vấn đề với Quỷ Nhi Đồng LHQ (UNICEF) vào thời điểm nào và về vấn đề gì?

MTT: Với mục đích truy tìm thêm thông tin, chúng tôi, qua email, đã hội ý với giáo sư Chappel, thuộc viện đại học Colorado ở Denver, và là Chief Investigator của Hoa kỳ về điều tra và xử lý ô nhiễm tại Bangladesh. Chúng tôi cũng nhiều lần trao đổi với giáo sư qua Hội nghị Quốc tế về Arsenic tổ chức hàng năm tại San Diego. Mãi đến đầu năm 1999, chúng tôi mới có điều kiện trực tiếp đặt vấn đề với cơ quan UNICEF có trụ sở đặt tại Hà Nội qua một tài liệu nghiên cứu ban đầu do chúng tôi soạn thảo. Nhưng UNICEF vẫn giữ thái độ im lặng. Trong lúc đó, UNICEF tiếp tục khuyến khích và thúc đẩy công cuộc đào giếng, đặc biệt là vùng ĐBSCL. Tính đến nay, có thể ước lượng được trên 200.000 giếng khoan hoặc đào cho vùng nầy, nơi mà người dân có thói quen xử dụng nguồn “nước mặt” và đánh phèn trước khi dùng. Theo một con số thống kê năm 2000 ở Việt Nam cho thấy, chỉ riêng tại tỉnh Trà Vinh có tất cả là 41.512 giếng khoan. Chính vì những lý do nầy đã thúc đẩy chúng tôi đi sâu vào việc tìm hiểu thêm tình trạng ô nhiễm arsenic ở Việt Nam.

 

ĐD: Công việc phân tích mẫu nước ở Việt Nam để tìm biết vấn đề ô nhiễm arsenic đã diễn ra trong thời gian từ 1/99 đến 7/00. Xin anh cho biết về cách thức lấy mẫu nước, ai đã làm công việc phân tích và mục đích để làm gì?

MTT: Với những trao đổi trực tiếp và qua các tài liệu tham khảo về nguy cơ ô nhiễm arsenic trên thế giới, chúng tôi bắt đầu thu thập dữ kiện. Qua bạn bè và thân nhân có dịp về thăm quê hương, chúng tôi chuẩn bị sẳn các chai lọ đặc biệt để chứa mẫu nưốc và nhờ họ đi lấy mẫu ở tất cả những nơi đã thăm viếng. Các mẫu nước được thu thập từ Hà Nội đến tận vùng ĐBSCL và được phân tích tại Hoa kỳ.

Kết quả đã được công bố trong ngày Hội thảo do MekongForum và HKHKTVN đồng tổ chức tại đại học Santa Ana vào tháng 11, 2000. Tuy là kết quả ban đầu và cần phải phân tích thêm nhiều mẫu nữa, nhưng chúng tôi có thể kết luận rằng nguồn nước ở nhiều vùng tại ĐBSCL đã bắt đầu bị nhiễm độc arsenic.  Cũng xin nói thêm là các mẫu nước thu thập đã được phân tích tại phòng thí nghiệm WECK Labs ở California  do chính chúng tôi phụ trách về kiểm soát chất lượng. Có tất cả 22 kim loại, 70 hợp chất hữu cơ, và 7 anions đã được phân tích cho mỗi mẫu. Mu.c đích của các cuộc phân tích nầy là để truy tìm sự hiện diện của arsenic, cùng các hợp chất hữu cơ trong nước. Chúng tôi đã phân tích các mẫu nước ở nhiều nơi trong những tỉnh ở miền Nam sau đây: Biên Hòa, Sàigòn, Long An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre. Hiện tại ở nhiều nơi, nồng độ arsenic đã đạt đến mức giới hạn của tiêu chuẩn an toàn do Liên Hiệp Quốc quy định là 10 ug/L (ppb – phần tỷ).

 

ĐD: Chúng ta hảy tạm ngừng ở đây để nói một vài điều về arsenic. Nó là một kim loại có sẳn trong lòng đất, từ đó nó thẩm lậu vào nước ngầm ở sâu dưới đất. Còn có xuất xứ nào khác khiến có arsenic trong nước không?

MTT: Ngoài sự hiện diện của arsenic dưới dạng phù sa arseno-pyrite như đã nói trên, các cuộc nghiên cứu năm 1999 do TS Gustafson (Thụy Điển) tại ĐBSCL cho thấy hàm lượng của arsenic trong đất ở vùng nầy khá cao từ 20 – 130 mg/Kg so với mức trung bình trong thiên nhiên là 4 mg/Kg. Cũng cần nên kễ thêm là GS Chappel có nhấn mạnh đến sự hiện diện của 26 đại công ty hóa chất ở cao nguyên Vân Nam (1999), đặc biệt là các công ty khai thác hầm mõ luyện kim, và tinh chế acid sulfuric; do đó ngoài sự hiện diện của arsenic cần phải lưu ý đến các kim loại khác qua phế thải của các công ty nầy.

Thêm nữa, việc xử dụng quá tải các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cũng có thể là một nguồn cung cấp arsenic trong nguồn nước và lòng đất vì arsenic là một trong những tác nhân chính trong việc điều chế các loại thuốc kễ trên.

 

ĐD: Nói đến nhiễm độc bởi arsenic. Vậy những ảnh hưởng đối vơiù sức khỏe của con người như thế nào?

MTT: Đây là một ảnh hưởng dài hạn. Trường hợp xảy ra ở Bangladesh cho chúng ta rõ nét về di hại do sự hiện diện của arsenic trong nguồn nước. Tùy theo mức độ xâm nhập vào cơ thể con người, những hội chứng do sự nhiễm độc arsenic thay đổi theo thời gian. Từ việc da ở lòng bàn tay, bàn chân cho đến vùng da ở trước ngực trở thành đen xậm do việc arsenic tích tụ trong cơ thể từ 5  đến 10 năm. Đó là một trong những chứng bịnh có tên là arsenicosis. Sau hơn 15 năm bị nhiễm độc, các bộ phận trong cơ thể như gan, thận, lá lách bị sưng to, hệ thống thần kinh, đường hô hấp bị suy thoái. Sau hơn 20 năm trở đi, các chứng ung thư gan, lá lách, bàng quan, thận bắt đầu xuất hiện. Hàng năm số tử vong ở Bangladesh vì arsenic lên đến hàng chục ngàn người. Như vậy, phải cần một thời gian dài mới cảm nhận được mức nhiễm độc của arsenic; và việc giải thích cho người dân hiểu được nguy cơ ô nhiễm trên quả thật rất khó khăn.

 

ĐD: Những kết quả phân tích mẫu nước đã được các anh công bố tại một khóa hội thảo của Hội KH&KT Việt Nam Santa Ana, bang California, vào tháng 11 năm 2000. Xin anh Truyết cho biết các hoạt động kế tiếp sau đó của các anh trong việc truy tìm arsenic trong nguồn nước ở Việt Nam.

MTT:  Sau khi công bố kết quả năm 2000, chúng tôi vẫn tiếp tục lấy mẫu nước thêm, mỗi khi có dịp để có thêm dữ kiện. Mãi cho đến khi bài phỏng vấn chúng tôi và kỹ sư Nguyễn Minh Quang do nhật báo Orange County Register ngày 3/1/2002 xuất hiện trên mặt báo, có một số người trong và ngoài nước kết án chúng tôi là “ăn cắp”, “chuyển lậu” chất độc ở Việt Nam qua Hoa kỳ và còn đe dọa yêu cầu chính phủ Việt Nam kiện chúng tôi ra tòa. Xin thưa với anh là chúng tôi vẫn tiếp tục nhận mẫu nước từ bên nhà cho đến ngày nay. Năm 2000, chúng tôi có thêm mẫu nước ở Vỉnh Long, Cần Thơ, Sa Đéc, Long Xuyên, Tân Châu và Châu đốc. Và đặc biệt hơn nữa, mới vừa cách đây 10 ngày (09/6/2001), một người bạn có mang về 4 mẫu nước ở vùng Biên Hòa, nơi mà tôi đã tìm thấy Arsenic có nồng độ cao trước đây (35ppb). Trong số các mẫu nầy, có một mẫu ở hồ Biên Hùng, mà cách đây không lâu Bác sĩ Schecter (Texas) đã tìm thấy sự hiện diện của Dioxin với nồng độ cao (?!); chúng tôi sẽ phân tích  mẫu nước nầy mặc dù phải chịu một chi phí rất cao (US$900.00/mẫu) mà phòng thí nghiệm của chúng tôi không có giấy phép để phân tích hóa chất nầy.

 

ĐD: Ngay tại Việt Nam, họ cũng đã tổ chức hội thảo về tình trạng môi trường. Đó là tháng 8 năm 2000. Cuộc hội thảo đó, theo anh biết, có đưa ra kết luận gì về ô nhiễm arsenic  không?

MTT: Chúng tôi có nghe qua cuộc hội thảo về tình trạng môi trường ở Việt Nam năm 2000. Theo chỗ chúng tôi được biết, đúc kết của hội thảo chỉ nhắm trọng tâm vào các vấn đề ô nhiễm trong không khí, nguồn nước, và lòng đất. Đại loại là để cảnh báo tình trạng môi trường xuống cấp mà thôi.

 

ĐD: Còn có điều gì khác rút ra từ cuộc hội thảo nói trên không?

MTT: Có chứ, thưa anh. Chúng tôi vừa được biết các cuộc điều tra về ô nhiễm arsenic đã được các khoa học gia Việt Nam thực hiện. Như Tiến sĩ Đỗ Trọng Sự cảnh báo từ năm 1997. Sang năm 1999, có hơn 1.200 mẫu nước giếng ở vùng Hà Nội đã được phân tích và 12.5% trong số đó có hàm lượng arsenic cao hơn 50 ug/L (báo Lao Động ngày 6/3/2002). Trong năm 2000, Viện Địa lý thực hiện 498 mẫu và tìm thấy 27% số mẫu có hàm lượng arsenic cao hơn 50ug/L. Đăc biệt hơn nữa là, tiến sĩ Ngô Ngọc Các thuộc Viện Địa lý Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia đã công bố kết quả điều tra và kết luận là nước giếng khoan ở Hà Nội bị nhiễm rất nặng (517 mẫu trên 925 mẫu có hàm lượng cao hơn 50 ug/L). Quả thật chúng tôi hoàn toàn không hiểu vơí những khám phá vừa kễ trên đã có trước khi hội thảo, mà không thấy ai đề cập đến vấn đề nầy? Tại sao để mãi đến năm 2002 mới cho dư luận trong nước biết đến vấn nạn nầy?

 

ĐD: Sau khi các anh trong Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam công bố những kết quả phân tích nước, chính quyền ở Việt Nam đã có đáp ứng nào không? Thuận lợi hay bất lợi?

MTT: Trong ngày Hội thảo năm 2000 tại đại học Santa Ana, chúng tôi phát biểu bằng Anh ngữ, và các bài viết bằng Việt ngữ đã được tạp chí Đi Tới (Montréal) đăng tải, cũng như các báo chí trong vùng. Tuy nhiên chúng tôi không ghi nhận được phản ứng nào của chính quyền Việt Nam trong thời gian nầy.

Mãi cho đến ngày 03/01/2002, nhật báo Orange County Register cho đăng tải bài phỏng vấn chúng tôi và kỹ sư Nguyễn Minh Quang về tình trạng môi trường và các vấn nạn ô nhiễm hóa chất ở Việt Nam, họ mới có phản ứng rất tiêu cực hướng về phía chúng tôi. Phản ứng đầu tiên là phát ngôn nhân bộ Ngoại giao Việt Nam đã kết án chúng tôi là “loan tin không có cơ sở và có dụng ý xấu”.

 

ĐD: Điều mà anh vừa cho biết rất là dễ hiểu nếu ta xét đến tính chất chế độ hiện hữu ở Việt Nam. Nhưng mà tôi chắc các anh vẫn coi thường, không buồn lòng phải không?

MTT: Thưa anh, đúng như vậy. Chúng tôi không để tâm nhiều đến những điều họ nói mặc dù sau đó, chúng tôi liên tiếp nhận được những thư nặc danh, cùng nhiều bài viết trên báo chí ở Việt Nam và hải ngoại, công kích, hăm dọa, bôi lọ đời tư cá nhân chúng tôi. Trong lúc đó, chúng tôi vẫn tiếp tục đi con đường của mình là cố thu thập thêm dữ kiện hầu mong có điều kiện để trang trải những điều cảnh báo đến những người dân chơn chất đang sống tại quê hương.

 

ĐD: Nhưng mà dù họ chỉ trích hay vu cáo, song sự thật, nhất là những dữ liệu khoa học, là những gì không phủ nhận được. Và nghe đâu, gần đây chính họ (thủ tướng Phan văn Khải) đã nhìn nhận vấn đề ô nhiễm sẽ là một thảm trạng lớn của Việt Nam. Anh có nghe nói như thế không? Trong trường hợp nào mà họ đã nhìn nhận như thế?

MMT: Vâng, thưa anh, sau khi báo Lao Động đăng tải các kết quả đo đạc của các khoa học gia chúng tôi vừa nói trên, có một sự kiện cần phải nêu ra là, vào cuối tháng tư vừa qua, thủ tướng Phan Văn Khải của chính quyền hiện tại đã công bố chính thức rằng nạn ô nhiễm arsenic trong nguồn nước có thể là một thảm nạn trong tương lai cho Việt Nam cũng như đã chỉ thị cho Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường phải lập phương án, điều tra và nghiên cứu vấn đề nầy. Khi nghe được tin nầy, chúng tôi không nghĩ rằng họ đã nghe được những lời cảnh báo của chúng tôi mà thi hành biện pháp kễ trên; tuy nhiên chúng tôi cũng cố gắng có một suy nghĩ tích cực là ước mong cho chỉ thị trên trở thành hiện thực!

 

ĐD: Trở lại với công cuộc nghiên cứu của anh. Anh chú trọng đến vùng ĐBSCL. Tại sao, xin anh cho biết.

MTT: Có nhiều nguyên nhân làm cho chúng tôi chú trọng đến vùng ĐBSCL. Thú nhất là các liên hệ tương tự về địa chất và dòng chảy của hai dòng sông Hằng Hà và Cửu Long, cũng như thảm nạn ở Bangladesh đả xảy ra do nguyên nhân mà UNICEF đang cổ súy ở Việt Nam qua việc khoan giếng. Thứ hai, kết quả phân tích của chúng tôi đã cho phép chúng tôi kết luận là arsenic đã hiện diện trong nguồn nước ở ĐBSCL. Thứ ba và quan trọng hơn hết là theo các cuộc nghiên cứu, vùng ĐBSCL là vùng đất phèn, bị nhiễm mặn thường xuyên, và nhiều nơi có độ pH thấp hơn 2 (acid) (pH trung hòa là 7). Chính ba yếu tố sau là những tác nhân kích thích sự phóng thích arsenic vào nguồn nước có thể với vận tốc nhanh hơn như đã xảy ra ở Bangladesh (khoảng 25 năm). Do đó chúng tôi tự thấy có trách nhiệm cần phải đẩy mạnh cuộc khảo sát ở vùng nầy vì đây là quê hương của hơn 20 triệu người dân chất phát ở miền Nam Việt Nam.

 

ĐD: Từ các kết quả anh có trong tay, anh có suy nghĩ thêm về các biện pháp giải quyết vấn đề nhiễm độc arsenic ở Việt Nam hay không?

MTT: Trước khi trình bày các biện pháp giải quyết tình trạng nhiễm độc arsenic, thiết nghĩ việc truy tìm sự hiện diện của nguyên tố nầy là một việc làm ưu tiên và cần thiết. Có rất nhiều cá nhân hay cơ quan trên thế giới đang tập trung trí tuệ để cố gắng tìm ra một hệ thống thử nghiệm tại hiện trường (test kit) dựa trên các tác dụng hóa học và vật lý. Tùy theo điều kiện thí nghiệm, các phương pháp nầy cho thấy mức độ chính xác tương đối, cho phép chúng ta ước lượng ban đấu tình trạng nhiễm độc ở những vùng khảo sát.

Đối với tình trạng hiện tại ở Việt Nam do sự thiếu phương tiện như  nhân sự, tài chính, kỹ thuật, dụng cụ, và đồng thời với việc điều ra ô nhiễm, chúng tôi cố tìm một phương cách rẽ tiền, dễ xử dụng để có thể thử nghiệm tại chỗ để làm khảo sát sơ bộ (screening) hầu thu thập được nhiều dữ kiện hơn thay vì phải lấy mẩu và chuyển về Hoa kỳ phân tích (phí tổn cho một mẩu phân tích là US$100.00/mẩu). Chúng tôi đang đi gần đến việc hoàn tất cho công cuộc xét nghiệm nầy bằng phương pháp dùng sulfate đồng để đo đạc nồng độ của arsenic. Tuy độ chính xác chưa đạt được tiêu chuẩn cao, nhưng cũng đủ cho ta có khái niệm về nồng độ ở những nơi tình nghi có ô nhiễm. Độ chính xác của phương pháp nầy ước tính vào khoảng 15 phần tỷ. Do dễ xử dụng và ít tốn kém, phương pháp nầy rất thích hợp cho Việt Nam trong việc điều tra căn bản về mức độ  nhiễm độc arsenic sẽ tiến hành dễ dàng và nhanh hơn.

Về việc xử lý những vùng nước bị nhiễm độc, chúng tôi cũng cố truy tìm những phương thức rẽ tiền thích ứng với điều kiện Việt Nam, mặc dù trên thế giới đã có quá nhiều biện pháp để giải quyết hữu hiệu bằng các phương pháp hóa học, vật lý như: dùng hydroxid sắt III, phương pháp thẩm thấu nghịch (reverse osmosis), trao đổi ion v. v.. .. Những phương pháp nầy đòi hỏi thiết bị tối tân và chi phí cao, không thể thực hiện được trong điều kiện Việt Nam hiện tại. Do đó chúng tôi nghiên về các phương pháp thiên nhiên như việc dùng thực vất để khử arsenic. Qua tham khảo chúng tôi được biết tiến sĩ Leno Ho, thuộc đại học Florida đã khám phá và chứng minh được rằng một loại cây thuộc họ dương xỉ (fern) có tên là Pteris Vittata có khả năng hấp thụ 755mg/Kg arsenic trong vòng 2 tuần lễ. Và theo kỹ sư Nguyễn Minh Quang, thì cây nầy chính là cây rau Rán, mọc dọc theo các bờ kinh hay sông rạch ở vùng Tân An, quê của anh. Tuy không tìm được cây dương xỉ trên, chúng tôi đã tìm được một loại tương tự, cây Nephrolepis Oblitera, có bán tại các tiệm bán hoa để làm thí nghiệm bằng cách cho thêm dung dịch có chứa nồng độ arsenic cao vào trong đất. Đất và lá cây được phân tích arsenic trước và sau hai tuần lễ. Kết quả tuy không đạt được như khám phá của tiến sĩ Ho, nhưng phương pháp nầy là một khích lệ cho việc khử arsenic trong nguồn nước. Cuộc nghiên cứu vẫn còn đang tiếp tục thưa anh.

 

ĐD: Nói một cách thực tế, người dân vùng ĐBSCL phải tự mình ý thức vấn nạn arsenic mà tự mình bảo vệ sức khỏe cho mình dù là chính quyền có thể lơ là. Theo ý kiến của anh Truyết, những người dân nầy nên làm gì?

MTT: Một lần nữa, qua các cuộc thăm dò, điều tra từ hơn ba năm nay, chúng tôi chắc chắn rằng nạn ô nhiễm arsenic trong nguồn nước, đặc biệt ở vùng ĐBSCL là một thực tế, một sự thật không cần phải chứng minh thêm nữa. Do đó, việc làm cấp bách trong hiện tại là phải tìm những phương cách để chế ngự nhiễm độc, song hành với việc truy tìm những phương sách khác để cung cấp nguồn nước an toàn cho người dân ĐBSCL

Việc xử dụng nguồn nước mặt sau khi đánh phèn là một thói quen mà người dân vùng ĐBSCL đã áp dụng từ ngàn xưa, hiện nay vẫn còn giá trị không những về mặt tập tục mà vẫn bàng bạc tính khoa học trong phương cách đối phó vơi thiên nhiên. Thêm nữa, vũ lượng hàng năm ở ĐBSCL hơn 2000 mm; điều nầy sẽ giúp người dân có đủ lượng nước sạch tiêu dùng cho nhu cầu ăn uống cả năm nếu người dân có phương tiện trử nước trong mùa mưa.

Thêm nữa, việc lạm dụng nguồn nước hiện có qua các giếng đào để đẩy mạnh nông nghiệp đã và đang gây ra hậu quả không lường được là môi trường bị ô nhiễm qua phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và tệ hại hơn nữa là mạch nước ngầm đã bị sụt giảm. Tính đến năm 2000, mạch nước ngầm của tỉnh Trà Vinh giảm từ 2 đến 2,5 thước. Điều nầy sẽ giúp cho nước mặn có cơ hội tiến sâu vào đất liền trong mùa khô, và làm giảm diện tích đất canh tác. Chúng tôi mong rằng các nông dân vùng ĐBSCL lưu ý vấn đề nầy.

 

ĐD: Trong khuôn khổ giải quyết nạn ô nhiễm arsenic, nhà nước Việt Nam, theo ý anh, nên yêu cấu UNICEF làm gì?

MTT: Về phía chính quyền hiện tại, chúng tôi nghĩ, họ cần yêu cầu UNICEF chấm dứt việc khuyến khích và tài trợ công tác đào và khoan giếng, và thay thế bằng việc tài trợ cho  việc lấp đặt hồ chứa công cộng và thiết lập hệ thống khử trùng bằng tia cực tím cho người dân ĐBSCL.

Họ cũng cần phải có kế hoạch và nhân sự giải thích cho người dân hiểu được nguy cơ nhiễm độc arsenic và mức độ nguy hiểm cùng cách xử dụng các lọai thuốc bảo vệ thực vật để tránh những vụ ngộ độc hoặc tai nạn cho người dân như đã xảy ra từ mấy tháng nay ở Việt Nam.

Vì thông tin và giáo dục người dân là biện pháp phòng bị hay nhất trước các vấn nạn môi trường đang xảy ra ở Việt Nam.

 

ĐD: Liên hệ trong đó là vấn đề xử dụng bừa bãi những hóa chất gọi chung là thuốc bảo vệ thực vật. Anh có nghĩ là với tình trạng hiện nay ở Việt Nam, đây là một vấn đề khó giải quyết hoặc không thể giải quyết không nhất là về tính chất xã hội?

MTT: Như đã trao đôi với anh và thính giả trong lần phỏng vấn cách đây hơn một tháng cũng trên chương trình Khoa học Kỹ thuật nầy, vấn đề xử dụng bừa bãi các loại thuốc bảo vệ thực vật đã là một đề tài nóng cho Việt Nam từ mấy tháng nay. Từ Hà Nội đến Sàigòn, báo chí trong nước đã loan tải những tin tức người dân bị ngộ độc vì ăn phải các thực phẩm như rau muống, đậu đủa, ngó sen, cà, đậu, mồng tơi,.. . thậm chí đến giá cũng bị nhiễm độc! Chúng tôi nghĩ đây là một vấn nạn có tầm vóc quốc gia và dường như về phía chính quyền chưa có một giải pháp thích nghi nào để giải quyết vấn đề. Sau bao chương trình đề ra như tháng làm sạch môi trường, tăng cường nhân viên kiểm soát .. . Các biện pháp trên chỉ là hình thức không thể giải quyết được vấn đề một cách có hiệu quả được.

Vấn đề môi trường ở Việt Nam chỉ có thể được giải quyết khi nào chính quyền hiện tại có quyết tâm thực sự. Hay đây không phải là ưu tiên hàng đầu của họ?

 

ĐD: Đến đây chúng tôi xin mời anh Truyết có ý kiến gì xin nói thẳng với thính giả của đài chúng tôi.

MTT: Thưa  quý thính giả trong và ngoài nước, Quý vị đã nghe qua phần trao đổi giữa chúng tôi và Biên tập viên Đức Duy của đài Á Châu Tự Do. Trước hết, xin cám ơn đài đã tạo cơ hội cho chúng tôi có dịp trình bày những suy nghĩ về các vấn nạn môi trường của Việt Nam hiện tại. Chúng tôi xin có vài lời tâm sự cùng những người dân chơn chất của vùng ĐBSCL là tình trạng suy thoái môi trường ngày càng trầm trọng.

Việc xử dụng phân bón quá liều lượng, và việc tận dụng triệt để đất đai qua thâm canh chỉ đem lại lợi nhuận trước mắt. Nhưng trong một tương lai rất gần, nguồn đất và môi trường sẽ xuống cấp, để rồi đất sẽ chai đi, và không còn điều kiện để nuôi sống người trồng trọt nữa.

Qua việc xử dụng thuốc bảo vệ thực vật để tăng năng xuất, bảo quản nguồn thực phẩm trước mắt, xin đừng quên di hại sẽ kéo dài trong nhiều thế hệ do sự tích tụ lâu ngày của các hóa chất nầy trong cơ thể. (Chu Phạm Ngọc Sơn mới vứa công bố trên báo Lao Động (14/6/2002) là trong năm 1999 là 91% trong mẫu thịt bò, 77,8% trong mẫu thịt gà, và 88,9% trong thức ăn gia súc có chứa hàm lượng dexamethasone, một loại thuốc kích thích tăng trưởng. Hóa chất nầy là tác nhân làm xáo trộn sự  trao đổi hormone trong cơ thể con người).

Nếu vì lý do nào, chính quyền hiện tại chưa có điều kiện giải quyết hay giúp đở người dân, chúng tôi nghĩ, đã đến lúc chính người dân phải đứng lên tự cứu lấy mình. Mới vừa đây, nhân ngày Môi trường Thế giới, UNICEF đã cảnh báo rằng 51,7% dân số Việt Nam mắc bịnh do ô nhiễm môi trường. Và các báo cáo gần đây của UNICEF, WHO, UNEP cho biết 40% các bịnh ô nhiễm môi trường đã tác động đến trẻ em dưới 5 tuổi.

Sau cùng, những chính sách cải tạo nông nghiệp của chính quyền tương tự  như “chính sách con tôm ôm cây lúa”, hay là nuôi tôm và trồng luá cùng một thời vụ trong vùng nước lợ, là một trong những chính sách vừa phi khoa học và phản thiên nhiên! Các loại chính sách trên sẽ là sự bắt đầu của một cuộc cách mạng mới trong tương lai.

Cuộc cách mạng nầy chắc chắn không phải là một cuộc cách mạng nông nghiệp.

 

Xin kính chào Quý thính giả nghe đài.