THẢO LUẬN VỚI TIẾN SĨ JEANNE MAGER STELLMAN CỦA ĐẠI HỌC COLUMBIA, NEW YORK VỀ PHẠM VI VÀ KIỂU CÁCH SỬ DỤNG CHẤT DA CAM VÀ THUỐC DIỆT CỎ Ở VIỆT NAM

 

Ngày 17 tháng 10 năm 2003

 

 Tiến sĩ (TS) Jeanne Mager Stellman là một chuyên viên quốc tế về sức khỏe và an toàn nghề nghiệp và sức khỏe phụ nữ. Hiện nay, bà là Phó khoa trưởng Khoa Quản trị và Chánh sách Y tế kiêm Giám đốc Chương tŕnh Y tế Công cộng của Trường Y tế Mailman, Đại học Columbia, tiểu bang New York, Hoa Kỳ. Năm 1998, nhờ cộng tác với chồng là TS Steven Stellman, một chuyên viên dịch tễ học, Bà kư một giao kèo trị giá 5 triệu Mỹ kim với Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia (National Academy of Sciences (NAS)) để phát triển một phương pháp nghiên cứu dùng trong việc lượng định mức tiếp xúc (exposure) với chất Da cam và các loại thuốc diệt cỏ quân sự được dùng trong cuộc chiến Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của TS Stellman được ấn hành trong tạp chí Nature, Bộ 422, ngày 17 tháng 4 năm 2003 trong một bài viết có tựa đề Phạm vi và kiểu cách sử dụng chất Da cam và thuốc diệt cỏ ở Việt Nam.

 

Trong bài viết nầy, TS Stellman kết luận rằng ... khối lượng và loại thuốc diệt cỏ được phun từ năm 1961 đến 1971 th́ nhiều hơn con số chưa điều chỉnh của NAS-1974 đến 7.131.907 lít và nhiều hơn con số điều chỉnh của NAS-1974 đến 9.440.028 lít, trong đó khoảng 10 phần trăm số phi vụ đă bị loại do sai sót trong khi phúc tŕnh.. (trang 682), rằng ... ước tính cho TCDD [dioxin] hiện diện trong khi phun tăng lên 221 kg so với ước tính của NAS-1974 từ 106 đến 163 kg. Nếu dùng 32,8 ppm [phần triệu] và 65,5 ppm cho nồng độ trung b́nh của dioxin trong chất Tím và Hồng, chúng tôi t́m thêm được 165 kg, hay tổng cộng là 366 kg... (trang 684), và rằng Trong số xă ấp có vài dữ kiện dân số, có 3.181 xă ấp bị phun trực tiếp và có ít nhất 2,1 triệu người, nhưng có lẽ lên đến 4,8 triệu người, có thể hiện diện trong khi xịt thuốc. (trang 685)

 

Nghiên cứu của TS Stellman đă được các chương tŕnh truyền h́nh quốc gia như chương tŕnh Tin tức Quốc tế Tối nay của ABC loan báo trong ngày 16 tháng 4 năm 2003 và được Ông Declan Butler ca ngợi là ... những bản đồ điện toán tinh vi và phức tạp nhất cho việc phun thuốc diệt cỏ ở Việt Nam từ trước cho đến nay, trong một câu chuyện có tựa đề Dioxin phun ở Việt Nam được ước tính cao gấp bốn lần đăng trên website Nature Science Update (www.nature.com/nsu <http://www.nature.com/nsu>) ngày 17 tháng 4 năm 2003, cùng lúc với bài viết của TS Stellman. Câu chuyện cho biết Một cuộc nghiên cứu sốt dẻo trên các tài liệu phi hành của các máy bay quân sự Mỹ dùng phun chất Da cam ở Việt Nam bị lăng quên từ lâu đă bất ngờ soi sáng một trong những thảm kịch của cuộc chiến... Lần đầu tiên, các tác giả của bài viết có thể tính toán chỉ số tiếp xúc (exposure index) cho cá nhân và dân số đủ chính xác để dùng cho việc nghiên cứu dịch tễ học cần thiết để liên kết với dữ kiện y tế... Dữ kiện gồm có phi tŕnh, số lượng và loại thuốc được phun (kể cả thất thoát v́ ṛ rỉ, rớt máy bay và đổ bỏ), vị trí và đường di chuyển của bộ binh, địa h́nh và thổ nhưỡng, và khu dân cư... Thí dụ, các bản đồ có thể cho biết từng người lính hoặc dân chúng hiện diện trong một vùng nào đó trong ngày xịt thuốc và bị tiếp xúc trực tiếp, hoặc họ di chuyển đến vùng bị xịt thuốc từ trước và bị tiếp xúc gián tiếp...

 

Ngay sau khi được công bố, bài viết trên tạp chí Nature đă trở thành tin tức hàng đầu trên khắp thế giới qua các hăng thông tấn như AFP, AP, và Reuters. Các bản tin cũng xuất hiện trên báo chí quốc tế như tờ Guardian ở Anh, San Francisco Chronicle ở Hoa Kỳ, và Sydney Morning Herald ở Úc. Tại Việt Nam, các báo do chính phủ kiểm soát như Nhân Dân và Lao Động đă khai thác sự kiện một cách tận t́nh. TS Wayne Dwernychuk, Phó chủ tịch và Trưởng Khoa học gia Môi trường của Công ty Cố vấn Hatfield ở Canada (HCL) cũng ca tụng bài viết của TS Stellman trên tạp chí Nature. HCL chính là công ty cố vấn đă làm việc với Ủy ban 10-80 của Việt Nam trong việc nghiên cứu dioxin ở A Lưới, Quảng Trị trong năm 1998 và 2000. Ư kiến của TS Dwernychuk, được đăng trên website của HCL (www.hatfieldgroup.com <http://www.hatfieldgroup.com/>), cho rằng  Bài viết trên tạp chí Nature có những hậu quả tất yếu đối với các cựu chiến binh Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam, trong đó nhiều thuốc diệt cỏ với nồng độ dioxin cao hơn đă được phun trên đầu bộ binh trong một số mục tiêu của chiến dịch Ranch Hand.

 

Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VAST) có cơ hội t́m hiểu bài viết của TS Stellman trên tạp chí Nature và nhận thấy một vài trị số hoặc con số mơ hồ hay không rơ ràng, không những trong chính bài viết của TS Stellman mà c̣n trong câu chuyện của Declan Butler trên Nature Science Update và trong các bản tin tức trên báo chí, nhất là báo chí trong nước. Do đó, vào ngày 18 tháng 4 năm 2003, VAST đă gởi một e-mail qua mục Phản hồi (feedback) của Nature Science Update (www.nature.com/nsu/feedback <http://www.nature.com/nsu/feedback>) để yêu cầu làm sáng tỏ tựa đề câu chuyện của Declan Butler (Dioxin phun ở Việt Nam được ước tính cao gấp bốn lần), v́ bài viết trên tạp chí Nature cho biết Ước tính số lượng dioxin phun ở Việt Nam th́ gần gấp đôi. Ngày 22 tháng 4 năm 2003, Chủ bút của Nature Science Update và Nature News Service trả lời e-mail của VAST, nguyên văn như sau:

 

Kính thưa Ông/Bà,

 

Con số ước tính bốn lần mà Ông/Bà trích từ bài viết [của Declan Butler] đề cập đến số lượng tổng cộng của tất cả thuốc diệt cỏ có chứa dioxin được phun ở Việt Nam, một trong số đó là chất Da cam Các thuốc diệt cỏ khác gồm có chất Tím và Hồng.

Con số hai lần chỉ đề cập đến chất Da cam mà thôi.

Nay kính,

 

Sara Abdulla

Rơ ràng, Nature Science Update không thể giải thích con số bốn lần lượng dioxin mô tả trong câu chuyện của Declan Butler. Do đó, VAST đă quyết định ngưng liên lạc với Nature Science Update về con số phóng đại của lượng dioxin được phun ở Việt Nam.

 

Ngày 25 tháng 4 năm 2003, VAST đă gởi thơ chính thức đến TS Stellman để nhờ Bà làm sáng tỏ một vài trị số được tŕnh bày trong bài viết đăng trên tạp chí Nature. Bức thơ của VAST được lược dịch như sau:

 

Kính gởi TS Jeanne Mager Stellman

Khoa Quản trị và Chánh sách Y tế

Trường Y tế Mailman, Đại học Columbia

600 West 168th Street, 6th floor

New York, NY 10032

 

Trích yếu: Phạm vi và kiểu cách sử dụng chất Da cam và thuốc diệt cỏ ở Việt Nam

 

Kính thưa Tiến sĩ Stellman:

 

Chúng tôi đọc bài viết có tựa đề Phạm vi và kiểu cách sử dụng chất Da cam và thuốc diệt cỏ ở Việt Nam (Bài Viết) mà Tiến sĩ và các cộng sự viên công bố trên Nature, Bộ 422, ngày 17 tháng 4 năm 2003 với ḷng mong mỏi và tính ṭ ṃ. Mặc dù Bài Viết tŕnh bày các trị số được điều chỉnh cho số lượng thuốc diệt cỏ và chất dioxin mà Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ đă ước tính trước đây, chúng tôi rất cảm ơn nếu Tiến sĩ vui ḷng giúp chúng tôi làm sáng tỏ các trị số được điều chỉnh nầy.

 

Bài Viết, trên trang 682, ghi rằng Chúng tôi ước tính lại số lượng và loại thuốc diệt cỏ phun từ 1961 đến 1971 th́ thấy số lượng nầy nhiều hơn con số chưa điều chỉnh của NAS-1974 đến 7.131.907 lít và nhiều hơn con số điều chỉnh của NAS-1974 đến 9.440.028 lít..., nhưng số lượng dioxin được ước tính lại th́ không được công bố. Một thông tín viên của BBC tường tŕnh rằng Họ kết luận rằng 77 triệu lít chất Da cam đă được dùng thay v́ 70 triệu như đă được ước tính trước đây. Số lượng 77 triệu lít có đúng không?

 

Bài Viết, trên trang 682, cũng ghi rằng Ước tính số lượng TCDD tích tụ ở Việt Nam dựa trên số lượng thuốc diệt cỏ có chất 2,4,5-T được phun (được điều chỉnh cao hơn dựa theo các dữ kiện mới t́m thấy), và trên nồng độ ô nhiễm TCDD. Dựa theo dữ kiện mà Bà mới khám phá trong khi nghiên cứu, đó là số phi vụ (19.905) được thực hiện từ năm 1961 đến 1971, số lượng thuốc diệt cỏ được phun là một hỗn hợp của một loại thuốc (Da cam, Tím, Hồng, Xanh, Xanh lá cây, hoặc Trắng) được pha loăng với nước, dầu cặn (diesel), hoặc dầu máy bay với một tỉ lệ thay đổi từ 1:10 đến 1:50. Các tỉ lệ ḥa tan nầy có được áp dụng trong ước tính của Bà hay không?

 

Bài Viết, trên trang 684, cho biết rằng Nếu 3 ppm, trị số trung b́nh liên quan đến loạt thuốc diệt cỏ có nồng độ dioxin thấp được áp dụng một cách dè dặt cho số lượng thuốc diệt cỏ chúng tôi vừa tŕnh bày ở đây, ước tính cho TCDD [dioxin] chứa trong thuốc diệt cỏ phun ở Việt Nam tăng lên 221 kg thay v́ khoảng 106-163 kg như ước tính của NAS-1974. Nếu dùng 32,8 ppm và 65,5 ppm cho nồng độ trung b́nh của TCDD trong chất Tím và Hồng, chúng tôi t́m thêm được 165 kg, hay tổng cộng là 366 kg... Làm thế nào để tính các con số 221 kg và 366 kg?

 

Bài Viết, trên trang 685, ghi rằng Trong số xă ấp có vài dữ kiện dân số, có 3.181 xă ấp bị phun trực tiếp và có ít nhất 2,1 triệu người, nhưng có lẽ lên đến 4,8 triệu người, có thể hiện diện trong khi xịt thuốc. Bà cũng nhấn mạnh trong phần tóm lược của Bài Viết rằng Dữ kiện thống kê dân số xă ấp cho thấy hàng triệu người Việt Nam hầu như bị phun thuốc diệt cỏ một cách trực tiếp. Nếu chúng tôi không lầm, Bà định nghĩa một vật hay người bị tiếp xúc trực tiếp với thuốc diệt cỏ (hay bị phun trực tiếp) nếu vật hay người đó ở trong một ô vuông có cạnh khoảng 1,1 km. Như vậy, một xă hoặc ấp nằm gần một góc của ô vuông th́ bị xem như bị phun trực tiếp nếu việc phun thuốc xảy ra ở góc đối diện, cách xa khoảng 1,5 km. Thêm vào đó, theo phát biểu trên trang 681, thuốc diệt cỏ ... được quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa dùng để khai quang rừng rậm và rừng đước, để phát quang ṿng đai chung quanh các căn cứ quân sự và để phá hủy hoa màu đáng ghét (unfriendly) như là một chiến thuật làm suy giảm nguồn lương thực của địch quân; do đó, có rất ít dân chúng, nếu không phải là địch quân, sinh sống trong các vùng kể trên. Các yếu tố nầy có được cứu xét khi ước tính dân số bị tiếp xúc với thuốc diệt cỏ hay không?

 

Một lần nữa, chúng tôi thành thật cảm ơn Tiến sĩ đă lưu tâm và dành th́ giờ để giúp chúng tôi. Chúng tôi hy vọng nhận được tin của Tiến sĩ trong một ngày thật gần. Tin tức mà Tiến sĩ cung cấp sẽ giúp cho chúng tôi hiểu rơ hơn ảnh hưởng có thể có của việc sử dụng thuốc diệt cỏ trong cuộc chiến Việt Nam. Nếu Tiến sĩ có thắc mắc, xin liên lạc với chúng tôi theo địa chỉ [email protected].

 

Trân trọng,

 

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết

Hội trưởng

 

Sau khi nhận thơ nhắc nhở của VAST đề ngày 26 tháng 6 năm 2003, TS Stellman gởi cho VAST một thơ hồi âm đề ngày 9 tháng 7 năm 2003. Bức thơ của TS Stellman chứa rất ít tin tức và được lược dịch như sau:

 

Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam

562 Condor Avenue

Brea, CA 92823

 

Kính thưa Ông Mai Thanh Truyết,

 

Để trả lời thơ yêu cầu của Ông liên quan đến việc nghiên cứu của chúng tôi, tôi đính kèm theo đây bài viết thứ hai về Hệ thông Thông tin Địa dư (Geographic Information System) do chúng tôi thực hiện, trong đó có một bảng tóm tắt số lượng thuốc diệt cỏ mà chúng tôi có thể kiểm chứng hiện nay. Như Ông sẽ thấy trong bảng tóm tắt trong bài viết trên tạp chí Nature, nhiều ngàn gallons đă được đặt mua nhưng chưa t́m được tài liệu phun xịt. Tôi không có ư kiến về tin tức loan tải trên báo chí liên quan đến việc nghiên cứu của chúng tôi, bởi v́ chúng tôi không thể kiểm soát được các tin nầy,

 

Xin Ông an tâm v́ chúng tôi biết thuốc diệt cỏ được pha loăng và biết rất rơ cách thức sử dụng các tỉ lệ nầy một cách thích hợp. (Tôi có bằng tiến sĩ về Hóa Lư.) Dioxin được ước tính bằng cách nhân nồng độ với khối lượng.

 

Chúng tôi có tŕnh bày những giới hạn trong các ước tính về mức độ tiếp xúc dioxin ở xă ấp. V́ các xă ấp không phải là một điểm (pinpoint) trên bản đồ, mà là một vùng, và v́ hầu hết các công tác phun xịt có trung b́nh 3 phi vụ, việc phun xịt thuốc diệt cỏ trên các xă ấp cần phải được xem xét một cách dè dặt (conservatively) như xảy ra trên toàn ô vuông. Chúng tôi c̣n dè đặt hơn thế nữa khi dùng tiêu chuẩn bên trong 0.5 km.

 

Tôi hơi bâng khuâng v́ phát biểu của Ông ... rất ít dân chúng, nếu không phải là địch quân, sinh sống trong các vùng kể trên.

Tôi e rằng tôi không biết làm cách nào để ước tính việc tiếp xúc của con người dựa

trên xu hướng chánh trị.

 

Xin Ông cho biết nếu cần thêm sự giúp đỡ của tôi.

 

Trân trọng,

 

Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman

Giáo sư Đại học

 

VAST đă hồi âm cho TS Stellman qua bức thơ chính thức đề ngày 21 tháng 7 năm 2003. Bức thơ được lược dịch như sau:

 

Kính gởi TS Jeanne Mager Stellman

Khoa Quản trị và Chánh sách Y tế

Trường Y tế Mailman, Đại học Columbia

600 West 168th Street, 6th floor

New York, NY 10032

 

Trích yếu: Phạm vi và kiểu cách sử dụng chất Da cam và thuốc diệt cỏ ở Việt Nam

 

Kính thưa Tiến sĩ Stellman:

 

Chúng tôi rất cảm ơn Tiến sĩ đă hồi âm thơ đề ngày 25 tháng 4 năm 2003 liên quan đến kết quả nghiên cứu của Tiến sĩ được tŕnh bày trong Phạm vi và kiểu cách sử dụng chất Da cam và thuốc diệt cỏ ở Việt Nam trên tạp chí Nature, Bộ 422, ngày 17 tháng 4 năm 2003, trang 681-87 (Bài Viết). Tuy nhiên, chúng tôi vẫn gặp khó khăn trong việc t́m kiếm các trị số sau đây:

 

Số lượng tổng cộng của thuốc diệt cỏ được phun ở Việt Nam từ 1961 đến 1971 mà Tiến sĩ đă ước tính lại, như được đề cập trên trang 682 của Bài Viết.

 

Ước tính số lượng dioxin được phun trong cuộc chiến Việt Nam, đó là 221 kg, 165 kg, và 366 kg, như được đề cập trên trang 684 của Bài Viết.

 

Số lượng 221 kg dường như được ước tính bằng cách dùng tổng số lượng trong Bảng 2 (19.490.690 gallons hay 73,67 triệu lít) trong bài viết A Geographic Information System for Characterizing Exposure to Agent Orange and Other Herbicides in Vietnam được đăng trên tạp chí Environmental Health Perspective, Bộ 111, Số 3, tháng 3 năm 2003, trang 321-28 (Nghiên cứu GIS) và nồng độ trung b́nh của dioxin là 3 phần triệu (ppm) hay mg/l. V́ khối lượng trong Bảng 2 là khối lượng được phun từ máy bay, tỉ lệ pha loăng phải được áp dụng. Do đó, số lượng dioxin được phun trong cuộc chiến Việt Nam có thể thay đổi từ 11 kg (nếu dùng tỉ lệ pha loăng 1:20) đến 22 kg (nếu dùng tỉ lệ pha loăng 1:10). Nếu dùng số lượng 500.018 gallons cho chất Tím (với nồng độ trung b́nh của dioxin là 32,8 ppm) và 13.291 gallons cho chất Hồng (với nồng độ trung b́nh của dioxin là 65,5 ppm) như mô tả trong Bảng 2, chúng tôi ước tính số lượng dioxin chứa trong hai loại thuốc diệt cỏ nầy chỉ có 65,3 kg (nếu không áp dụng tỉ lệ pha loăng), so với con số ước tính của Bà là 165 kg.

 

Chúng tôi nghĩ rằng số lượng thuốc diệt cỏ được phun trong cuộc chiến Việt Nam sẽ không bao giờ được ước tính một cách chính xác, nhưng chúng tôi tin rằng con số 19,49 triệu gallons trong Bảng 2 của Nghiên cứu GIS là tương đối chính xác. Lư do rất đơn giản, bởi v́ nó phù hợp với các con số được ước tính bằng nhiều phương pháp khác nhau. Thật vậy, nếu tổng số phi vụ được thực hiện từ năm 1961 đến 1971 là 19.905 như được ghi trong Bảng 2, số lượng thuốc diệt cỏ được phun bởi máy bay có cánh cố định (C-123) có thể được ước tính là 18,91 triệu gallons (nếu mỗi phi vụ phun một số lượng trung b́nh là 950 gallons). Cộng với khoảng 0,53 triệu gallons được phun chung quanh các căn cứ quân sự được mô tả trên trang 232 của Nghiên cứu GIS, tổng cộng số lượng thuốc diệt cỏ được phun trong cuộc chiến Việt Nam được ước tính là 19,43 triệu gallons. Nếu dùng tổng số diện tích bị phun là 2.631.297 ha và lượng thuốc phun xịt cho mỗi ha là 28 lít (như được mô tả trong Bài Viết), số lượng thuốc diệt cỏ được phun trong cuộc chiến Việt Nam được ước tính là 73.676.316 lít hay 19,49 triệu gallons.

 

Chúng tôi thành thật xin lỗi nếu phát biểu trước đây của chúng tôi có làm cho Bà bâng khuâng. Thật sự, chúng tôi chỉ muốn nói là có rất ít thường dân Việt Nam, nếu có, sinh sống trong rừng rậm, rừng đước, và khu vực ṿng đai chung quanh các căn cứ mà quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Ḥa đă khai quang từ năm 1961 đến 1971. Chúng tôi rất vui mừng khi thấy Bà công nhận những giới hạn của các ước tính về việc tiếp xúc với thuốc diệt cỏ của xă ấp trong nghiên cứu của Bà.

 

Một lần nữa, chúng tôi thành thật cảm ơn ḷng ưu ái và sự giúp đỡ của Bà. Nếu Bà có thắc mắc về bức thơ nầy, xin vui ḷng liên lạc với chúng tôi tại địa chỉ [email protected].

 

Trân trọng,

 

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết

Hội trưởng

 

Cho đến giờ phút nầy, TS Stellman vẫn chưa phúc đáp thơ hồi âm của VAST. Chúng tôi hy vọng được tiếp tục thảo luận với TS Stellman để t́m hiểu thêm về phương pháp nghiên cứu của Bà và để làm sáng tỏ các ước tính về số lượng thuốc diệt cỏ dùng trong cuộc chiến Việt Nam cũng như các ước tính về dân số bị phun trực tiếp, như được tŕnh bày trên tạp chí Nature trong bài Phạm vi và kiểu cách sử dụng chất Da cam và thuốc diệt cỏ ở Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng cung cấp cho TS Stellman các con số về số lượng dioxin chứa trong thuốc diệt cỏ được phun trong cuộc chiến Việt Nam mà chúng tôi đă ước tính và vui ḷng thảo luận với TS Stellman về đề tài nầy.

 

Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VAST)