Một Bài Học Từ Thảm Nạn Chernobyl - A Lesson From Chernobyl Disaster

 

 

 Trong đêm 25 rạng 26 tháng 4 năm 1986, một tai nạn bi thảm nhất thế giới đă xảy ra ở nhà máy điện dân sự hạch nhân Chernobyl ở Liên Sô cũ hay Ukraine hiện tại. Nhà máy điện hạch nhân nầy ở về phía Bắc cách thành phố Kiev 80 dậm. Nhà máy có 4 ḷ phản ứng.

Đúng 1 giờ 23 phút sáng, các phản ứng phát nhiệt dây chuyền hoàn toàn không c̣n kiểm soát được và kết quả là nhiều tiếng nổ lớn cùng những cột lửa thoát ra từ cửa của ḷ hạch nhân số 4.

Có 30 nạn nhân bị chết ngay tức khắc. Hàng ngàn nhân viện cấp cứu tự nguyện cũng bị chết tiếp theo sau đó. Sau nầy con số đă được chính quyền kiểm chứng lại và ước tính từ 7.000 đến 10.000 người bị chết. Chất phóng xạ tỏa ra, bao phủ một vùng trên 20 dậm đường kính và 135.000 người dân phải di chuyểnngay sau đó. Mức phóng xạ đă được ước tính tương đương với 200 quả bom nguyên tử đổ xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki vào thời đệ nhị thế chiến. Phóng xạ không những ảnh hưởng ở vùng xảy ra tai nạn mà c̣n lan rộng sang Belarus, Nga Sô, Ba Lan, Thụy Điển, Đức Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều quốc gia khác nữa.

 

Tổng kết dài hạn, kết quả cho thấy có khoảng 150.000 trẻ em có nguy cơ bị ung thư  tuyến giáp trạng, và 800 ngàn bị leukemia (ung thư máu). Trên 2 triệu rưởi đất hoàn toàn bị hoang hóa, chiếm 20% diện tích đất canh tác của Ukraine. Ngoài nhân mạng và đất đai bất khiển dụng, vùng đất hoang phế nầy phải cần đến khoảng 200 tỷ Mỹ kim để có thể xử lư và cải thiện môi trường.

 

Nguyên nhân tạo nên tai nạn

 

Theo lịch tŕnh, ḷ phản ứng số 4 phải bị ngưng hoạt động vào ngày 25/4, nghĩa là ngày xảy ra tai nạn, để bảo tŕ và kiểm soát lại hệ thống an toàn. Trên nguyên tắc , khi bắt đầu thử nghiệm, th́ tất cả hệ thống điện phải được đ́nh chỉ, trừ nguồn điện dự trù cho việc vận hành hệ thống an toàn trong điều kiện khẩn cấp. Nhưng khi ḷ phản ứng hoạt động c̣n khoảng 50%, hệ thống điện v́ một lư do ǵ đó vẫn c̣n trên mạng lưới của nhà máy. Từ đó nhiệt độ của ḷ phản ứng tăng nhanh bất thường, cũng như hệ thống làm nguội hoàn toàn ngưng hoạt động.

 

Dưới áp lực đó, các ống nguyên tử bắt đầu bị bể ra và phóng xạ thoát ra ngoài môi trường chung quanh.

 

Theo một tài liệu bí mật trong văn khố Nga Sô vừa được giải mă gần đây, th́ tai nạn ở Chernobyl đă được những người có trách nhiệm tiên liệu trước qua những khuyết điểm trong việc xây dựng các ḷ phản ứng ở đây. Và nguyên nhân quan trọng nhất là sự thiếu vắng của văn hóa an toàn(lack of a safety culture), nghĩa là lănh đạo đă biết rơ nguy cơ tai nạn sẽ xảy ra bất cứ lúc nào, nhưng v́ dưới danh nghĩa tập thể, không ai xem đây là điểm cần phải cải đổi để làm tăng mức an toàn trong vận hành.

 

Thứ đến là nguyên nhân về kỹ thuật, các ḷ phản ứng tại đây không có hệ thống kiểm soát hay chêá ngự phản ứng phát nhiệt, cũng như hệ thống làm nguội bằng nước thay v́ bằng hơi nước (Đây là loại ḷ phản ứng hạch nhân thuộc thế hệ I, nghĩa là theo kỹ thuật từ những năm 1950. Do đó, một sự tăng nhiệt độ bất thường sẽ làm tăng thêm lượng hơi nước đă hấp thụ sẳn trung ḥa tử, do đó áp suất sẽ tăng dần cho đến mức độ làm bể nấp ḷ phản ứng). Chỉ trong khoảng thời gian 3- 4 giây, ḷ phản ứng thay v́ dược làm nguội lại nóng hơn gấp 100 lần, từ đó nước trong ḷ phản ứng bốc hơi, tạo ra ra áp suất lớn và làm nổ tungcả hệ thống bao bọc ḷ bằng bê tông cốt sắt nặng hàng ngàn tấn. Hơi nước đă mang theo độ 70% chất phóng xạ vào môi trường ngay sau đó.

 

Nguyên nhân thứ ba là sự vi phạm trầm trọng các thủ tục thử nghiệm về an toàn do nhân viện kỹ thuật phạm phải. Đó là trong quy tŕnh an toàn vận hành, cần phải thử nghiệm các ống phản ứng trong ḷ. Lần sau cùng nầy, các nhân viện chỉ thử nghiệm 8 ống phản ứng thay v́ 30 ống trong ḷ. Thêm nữa, hệ thống làm nguội khi xảy ra tai nạn không hoạt động.

 

Và nguyên nhân sau cùng là tại nhà máy không có hệ thống liên lạc hữu hiệu giữa  các bộ phận chung quanh nhà máy, do đó nhân viên làm việc ở các ḷ khác không được thông báo kịp thời cho nên con số nạn nhân rất cao.

 

Ảnh hưởng lên sức khỏe và tâm lư người dân sau tai nạn

 

Về sức khỏe:  Từ năm 1981 đến 1985, năm năm trước khi xảy ra tai nạn, trẻ em ở Ukraine dưới 15 tuổi trung b́nh bị ung thư tuyến giáp trạng là 4 - 6/1 triệu trẻ em . Từ năm 1986 đến 1997, số nạn nhân ung thư tăng lên 45/ 1 triệu, trong đó 64% bệnh nhân sống ở vùng bị nhiễm phóng xạ như Kiev, Chernigov, Zhitomir, Cherkassy, và Rovne.

 

Về ảnh hưởng tâm lư: Cho đến hiện nay, vẫn c̣n nhiều chỉ dấu ám ảnh và không thể xóa bỏ trong tâm thức của đa số người dân sống chung quanh Chernobyl. Đó là: sự lo sợ; sự trầm cảm; sự không c̣n tin tưởng vào tương lai trước mắt; và sau hết là hiện tượng rối loạn thần kinh.

 

Một trong những nguyên do làm cho các ảnh hưởng trên trở nên trầm trọng là v́ chính quyền không có biện pháp giải thích, hướng dẫn, cùng trấn an dân chúng sau khi xảy ra tai nạn. Hơn nữa, sự hoảng hốt, và sự bưng bít những thông tin bất lợi của tai nạn, nghĩa là trốn tránh sự thật của lănh đạo Liên Sô (thời c̣n dưới chế độ Cộng sản) làm cho dân chúng càng nghi ngờ và không c̣n ai tin tưởng những ǵ nhà cấm quyền thống báo ra. Đây cũng là một bài học lớn cho những quốc gia c̣n hạn chế thông tin trong dân chúng.

 

Ảnh hưởng lên xă hội, kinh tế, và chính trị

 

Ngay sau tai nạn, lănh đạo Liên Sô đă kiểm soát mọi biện pháp giới hạn các hoạt động kỹ nghệ và nông nghiệp trong những vùng có nguy cơ bị nhiễm phóng xạ, nhất là các kỹ nghệ phục vụ cho xuất cảng. Điều nầy làm cho lợi tức của người dân bị giảm theo, kéo theo lợi tức của địa phương. Từ đó, mức đấu tư cũng giảm do tâm lư không an toàn của những nhà đầu tư nội địa cũng như ngoại quốc.

 

Thêm nữa, sự di dời dân chúng trong vùng đă làm xáo trộn mọi hoạt động trong vùng. Ngay khi xảy ra tai nạn có 116 ngàn người phải di dời. Trong khoảng thời gian từ 1990 đến 1995 chính quyền lại phải dời cư thêm 210 ngàn người nữa. Điều nầy đưa dến việc xây dựng thêm một thành phố mới là Slavitich cho cư dânvà nhânviên nhà máy Chernobyl. Chi phí cho việc di dời lên đến 26 tỷ Mỹ kim. V́ nhà máy đă bị đóng cửa vỉnh viễn cho nên nhu cầu điện năng để sản xuất và sinh hoạt trong dân chúng bị hạn chế trầm trọng.

 

Về xă hội, th́ mức sinh sản giảm, cũng như nhân lực lao động và chuyên môn đă di chuyển về những vùng không bị ô nhiễm phóng xạ, do đó t́nh trạng thiếu lao động trong vùng càng làm cho mức phát triển bị sút giảm nặng nề.

 

Về kinh tế,nông nghiệp và kỹ nghệ hầu như bị tê liệt hoàn toàn, và chính phủ Ukraine ước tính mức thiệt hại hàng năm lên đến 13 tỷ Mỹ kim.

 

Giải pháp đề nghị trong sự vận hành ḷ phản ứng hạch nhân

 

Từ thảm nạn kinh hoàng trên và những hậu quả tiếp theo, kéo dài hàng chục năm sau đó, Cơ quan Mội trường Hoa Kỳ và các quốc gia khác trên thế giới qua nhiều phiên họp đă đề ra các khuyến cáo sau đây hầu cóthể tránh những tai nạn tương tự xảy ra trong tương lai:

 

·           Trước hết, cần phải chuẩn bị tư tưởng và tâm lư cho tất cả nhân viện trực tiếp hay gián tiếp tham dự vào việc điều hành một ḷ phản ứng hạch nhân về vấn đề an toàn trong vận hành. Mọi bất thường dù nhỏ đến đâu cũng cần phải được báo cáo lên cấp trên ngay tức khắc, và phải được ban điều hành giải quyết ngay sau đó;

·           Ủy ban luật định ḷ phản ứng (Nuclear Regulatory Commission) cần phải luôn luôn giữ vai tṛ tích cực và cương quyết trong việc áp dụng luật lệ ở các nhà máy hạch nhân, để đề pḥng tai nạn có thể xảy ra trước việc các nhà máy không tuân thủ đúng theo quy định an toàn của ủy ban.

·           Thường xuyên huấn luyện và tái huấn luyện nhân sự cũng như thực tập một số  tai nạn giă tạo để khảo sát khả năng ứng đối của nhân viên trong trường hợp xảy ra tai nạn thật sự.

·           Yếu tố nhân sự cũng là yếu tố hàng đầu trong trường hợp có tai nạn, do đó vấn đề an toàn vận hành cho một ḷ phản ứng hạch nhân lư tưởng cần phải được Ban điều hành phát thảo và trao đổi với nhân viên nhà máy thường xuyên.

·           Và sau cùng, làm thế nào để có một sự cảm thông và đối thoại trong tinh thần b́nh đẳng về bảo hành an toàn chung giữa ban điều hành và nhân viên nhà máy.

 

Nếu thực hiện được những điều trên, hy vọng tai nạn tại Chernobyl sẽ không c̣n xảy ra trên hành tinh của chúng ta nữa. C̣n đối với những quốc gia chưa có kinh nghiệm về việc tinh luyện chất Uranium- 235 như Việt Nam, việc thiết lập và xây dựng một ḷ phản ứng cần phải có nhiều chuẩn bị hơn nữa. Một trung tâm nghiên cứu việc tinh luyện và việc huấn luyện nhân sự chuyên môn là hai điều cần yếu đ̣i hỏi một thời gian ít nhất là 20 năm trong trường hợp Việt Nam. Bao giờ hai mục tiêu trên được thỏa măn, lúc đó Việt Nam có thể bắt đầu xây dựng ḷ phản ứng hạch nhân cho nhu cầu năng lượng cũng vẫn chưa muộn.

 

Mai Thanh Truyết

West Covina, 10,2004